Giáo Phận Bắc Ninh

 

Ṭa Giám Mục Giáo Phận Bắc Ninh

 

Địa chỉ :  537 Ngô Gia Tự P Tiến An T/P Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh

GM Giáo phận : Đức Cha Comas Hoàng Văn Đạt

Tel         : +84 (241)-821-438

+84 (241)-824-843

E-mail    : vptgmbn@gmail.com 

 

Web site : http://www.giaophanbacninh.org/

 
Năm thành lập : 1833 Diện tích    : 24,700 Km2
Số Giáo dân    : 132,041 (2014)  
Số Giáo hạt     : 4 Số Giáo xứ : 76 (356 Gh)
Số Linh mục    : 51 Số Tu sĩ      : 323

Tư liệu : Danh sách Giáo xứ Giáo họ Giáo phận Bắc Ninh
               Danh sách Linh mục Giáo phận Bắc Ninh
               Một vài nét về giáo phận Bắc Ninh (24/11/2017

* Niên lịch sử Giáo Phận Bắc Ninh
* Lược Sử Giáo Phận Bắc Ninh (Kỷ niệm 125 năm thành lập giáo phận)
* Kỉ niệm 127 năm thành lập giáo phận Bắc Ninh  -  H́nh ảnh
* Giáo phận Bắc Ninh: Một Chặng Đường (12/8/2011)
* Trên Quê Hương Của Chúa

-  Tin tức sinh hoạt

* Thánh lễ khai mở Năm Thánh Ḷng Thương Xót (13/12/2015)
* Giáo phận Bắc Ninh qua các sự kiện đặc biệt năm 2013
* Giáo phận Bắc Ninh kỷ niệm 130 năm thành lập (29/5/2013)
* Lễ thánh Cosma và Đamianô, bổn mạng Đức cha giáo phận Bắc Ninh (26/9/2011)
* Lễ Bế Mạc Năm Thánh và Khai Mạc Năm Giới Trẻ Giáp Phận Bắc Ninh (1/1/2011)
* Hồng ân vĩnh khấn đầu tiên trong lịch sử tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất Bắc Ninh

 

Lược Sử Giáo Phận Bắc Ninh

(Nhân dịp mừng kỷ niệm 125 năm thành lập giáo phận).

LM. Cosmas Hoàng Văn Đạt (29.5.2008)

Nguồn : GiaDinhBacNinh.Com

Cách đây đúng 125 năm, ngày 29.5.1883, Ṭa Thánh cho thành lập giáo phận Bắc Ninh. Hôm nay, trong ngày lễ ấm cúng tại nhà thờ Chính Ṭa Bắc Ninh, chúng ta vừa nghe lời Chúa mời gọi ca ngợi và tạ ơn về những ǵ Chúa đă thực hiện cho chúng ta. Tôi rất hân hạnh và vui mừng được cùng với cả cộng đoàn ôn lại những năm tháng đă qua để nhận ra trái tim và bàn tay của Thiên Chúa dành cho giáo phận, và hướng nh́n đến những năm tháng sắp tới để tin tưởng nh́n vào tương lai. Tôi là một đứa con lưu lạc của giáo phận, nên không có tham vọng nói được hết mọi điều cần, chỉ xin chia sẻ một vài tâm t́nh đơn sơ.

1. Năm 1627, khi hai thừa sai Ḍng Tên lần đầu tiên là cha Pedro Marques và cha Alexandre de Rhodes (quen gọi là cha Đắc Lộ) đặt chân đến Cửa Bạng Thanh Hoá rồi đến Hà Nội, chắc chắn lúc ấy trên phần đất giáo phận Bắc Ninh hiện nay chưa có một người công giáo nào. 32 năm sau, khi Ṭa Thánh thiết lập 2 giáo phận đầu tiên của Việt Nam là Đàng Trong và Đáng Ngoài, sử sách ghi nhận đă có một số giáo dân ở Kẻ Mốt (xứ Đức Trai), Kẻ Nê (xứ Tử Nê) và Kẻ Roi (xứ Xuân Ḥa). 20 năm sau nữa, khi giáo phận Đàng Ngoài được chia thành hai là giáo phận Đông (Hải Pḥng) và giáo phận Tây (Hà Nội), th́ trên phần đất của giáo phận Bắc Ninh hiện nay đă có 3317 giáo dân và 32 nhà thờ, do các cha Ḍng Tên coi sóc. Vào ngày giáo phận được thiết lập, có 35 ngàn giáo dân trong 11 xứ và 28 họ, 22 linh mục, 50 thầy giảng và 8 nữ tu Mến Thánh Giá. Hiện nay, giáo phận có 125 ngàn giáo dân trong hơn 50 xứ, hơn 300 họ, do 42 linh mục và một phó tế coi sóc. Theo cách nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng, th́ đó là một hạt cải nhỏ đă nảy mầm và lớn lên thành một cây to.

2. Trước khi giáo phận được thiết lập, hai trận siêu băo trong thế kỷ XIX mang tên Minh Mạng và Tự Đức tưởng chừng đă tiêu diệt được cây non ấy từ trong trứng nước, nhưng trái với điều loài người tính toán, Thiên Chúa đă biến sự dữ thành sự lành, đă hội nhập ác tâm của con người vào trong kế hoạch yêu thương.

Năm 1838, ngày lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, quan quân triều đ́nh bao vây xứ Kẻ Mốt, bắt cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, Ḍng Đaminh, 42 tuổi cùng với thầy giảng Đaminh Bùi Văn Úy, 26 tuổi, và 3 giáo dân trẻ. Đó là 3 thanh niên nghèo quê ở Thái B́nh đến Kẻ Mốt làm thuê. Anh Tôma Nguyễn Văn Đệ 27 tuổi là thợ may, sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh công giáo. Chính anh d́u dắt 2 bạn đồng hương đến với Chúa. Anh Augustinô Nguyễn Văn Mới, 32 tuổi, là nông dân, sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh lương dân, đă theo đạo tại Kẻ Mốt. Anh Têphanô Nguyễn Văn Vinh, 25 tuổi, cùng là nông dân, sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh lương dân, thường đi đọc kinh dự lễ nhưng chưa được rửa tội. Cả 5 cha con bị giam tại Lương Tài. Thầy giảng Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, 38 tuổi, ở họ Nội xứ Kẻ Mốt, đến Lương Tài để ḍ hỏi tin tức 5 cha con th́ bị bắt. Cả 6 cha con bị đưa lên Bắc Ninh giam chung với cụ trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh. Năm ấy cụ 75 tuổi, quê ở làng Vân tỉnh Bắc Giang, suốt đời làm lương y, bị bắt tại bến đ̣ Thổ Hà vào đầu tháng 7. chính trong nhà giam, cha Tự đă rửa tội cho anh Vinh. V́ cả 7 cha con không chịu bước qua Thánh Giá, nên bị kết án tử h́nh. Ngày 5.9.1838, cha Tự và cụ Cảnh bị xứ trảm. Ngày 19.12.1839, năm chứng nhân c̣n lại bị xử giảo. Cả 7 chứng nhân đă được tôn phong hiển thánh.

Cuối năm 1859, tức là 20 năm sau, thừa lệnh vua Tự Đức, quan tổng trấn Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên) triệu tập các đầu mục, tức là những giáo dân đứng đầu các họ đạo trong khu vực đến Bắc Ninh, và truyền lệnh của vua phải xuất giáo. Các ngài từ chối, nên bị đánh đập dă man rồi cho biết sẽ bị giam và đánh đập cho tới khi xuất giáo. Trong hơn 2 năm, nhiều vị "thứ mục", tức là những người giúp việc các họ đạo, cũng bị bắt giam. Do bị tra tấn dă man, một số đă xuất giáo. Có 3 chứng nhân đă chết trong thời gian bị giam giữ và tra tấn. Ngày 4.4.1862, quan tổng trấn Nguyễn Văn Phong ra lệnh chém đúng 100 chứng nhân c̣n lại, rồi chôn trong hai hố tập thể ở cổng thành. Tiểu đội trưởng Aát, người lương dân, thuộc thành phần đội thi hành án hôm ấy khai: "Quan án sát truyền lệnh cho tôi phải chôn các đầu mục. Khi tới miệng hố mới được đào trước đó không lâu để chôn họ, lính lập tức dùng gươm giáo đâm chém chừng 30 người, nhưng chỉ có 5 hay 6 người bị chém ĺa đầu. Lúc ấy viên chánh án ngồi trên cao nói lớn: Đây là phép nước. Phải truy lùng, trừng trị, tiêu diệt chúng. Đẩy chúng xuống hố." Đại đội trưởng Mẫu, cũng người lương dân, cầm đầu cuộc thi hành án hôm ấy cho biết: "Tôi chỉ huy việc chôn họ. Tôi thấy các đầu mục bị trói, nhưng rất hớn hở đến nơi thụ h́nh. Họ sốt sắng đọc kinh, nhưng tôi không hiểu họ đọc ǵ, chỉ nhớ họ đọc lớn tiếng và liên tục. Tôi biết rơ việc họ tới nơi thụ h́nh. Hôm sau, các hố chôn bị voi giày cho bằng, để nếu ai c̣n sống sẽ chết mau hơn," 100 đầu mục tử đạo là một biến cố lịch sử đông tây kim cổ chưa từng có.

Chúng ta cũng đừng quên cha thánh Phêrô Almato B́nh, Ḍng Đaminh, người Tây Ban Nha, từng coi sóc xứ Thiết Nham rồi Tử Nê và Thọ Ninh, cuối cùng đă hy sinh tại Hải Dương cùng với hai thánh giám mục Giêrônimô Liêm và Valentino Vinh tại Hải Dương năm 1861.

Tưởng chừng những biện pháp ghê rợn sẽ làm nhụt chí các tín hữu, nhưng máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh đức tin: giáo phận qua cơn thử thách quyết liệt đă vươn vai lớn mạnh như chú bé huyền thoại làng Phù Đổng.

3. Gần chúng ta hơn, sau khi giáo phận được thiết lập khoảng 70 năm, một thử thách khác không kém gay go mà các bậc cha anh trực tiếp của chúng ta đă trải qua và vượt qua. Năm 1954, giáo phận có 68 ngàn giáo dân, 62 xứ, 413 nhà thờ, 80 linh mục và 28 đại chủng sinh. Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, gần 40 ngàn giáo dân cùng với đại đa số các linh mục và tất cả chủng sinh di cư vào nam. Ở lại giáo phận chỉ c̣n khoảng 30 ngàn giáo dân, 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng và 11 nữ tu Đaminh. Trong t́nh trạng chiến tranh, và thời bao cấp, hoạt động của các linh mục bị hạn chế tối đa. Đă vậy các chủng viện lại bị đóng cửa. Có lúc giáo phận chỉ c̣n 1 hay 2 linh mục. Trong gần 30 năm, Đức cha Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng, nay là Hồng Y, không thể đi thăm các xứ họ, đă dâng lễ trong một pḥng diện tích chưa đầy 8m2. Tại đây, ngài đă âm thầm truyền chức cho một số linh mục trong và ngoài giáo phận, và cả đến phong chức giám mục cho đức cha Đaminh Quảng của Bắc Ninh và đức cha Vinhsơn Dụ của giáo phận Lạng Sơn.. Thiếu linh mục, ngài đào tạo giáo dân lănh đạo các xứ họ, kêu gọi các cô tận hiến (nay là Tu Hội Hiệp Nhất) tiếp sức. Ngài soạn các kinh và giáo lư Kinh Thánh bằng văn vần để giáo dân dễ nhớ và trẻ em dễ học. Chính đức cố giám mục Giuse Maria trong một thời gian phải hằng ngày đạp xe rời làng trước khi trời sáng, đi 30 km đến toà giám mục để học, rồi lại đạp xe về khi trời đă tối. Mọi sinh hoạt được tập trung tại Ṭa Giám Mục. Có những giáo dân nhiều khi phải đi tàu lửa đến ga Yên Viên rồi đi bộ 20km đến Bắc Ninh dự lễ. Có những người phải đạp xe hàng trăm cây số để được xưng tội hay làm phép cưới. Có những giáo dân phải dùng xe cải tiến đi 70 km chở củi trong đêm tối đến giúp Ṭa Giám Mục có chất đốt. Năm 1993, khi tôi đến thăm một họ ở huyện Sóc Sơn, ông trùm đă khóc và cho biết: "Từ tạo thiên lập địa đến nay mới có một cha đặt chân đến đây!" Cũng vào thời điểm ấy, tôi hỏi một nhóm thanh niên nam nữ ở một họ trong tỉnh Bắc Ninh: họ không biết truyện người con hoang đàng hay truyện người Samari nhân hậu Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng. Đă có nhiều người do nhu cầu kinh tế hay v́ yếu đuối đă xa nhà thờ, đă rối hôn nhân, đă không dám giữ đạo công khai. Chỉ Thiên Chúa mới biết hết được bao nhiêu cố gắng và hi sinh đến mức anh hùng của hàng ngàn hàng vạn tín hữu, giáo dân cũng như giáo sĩ và tu sĩ để giáo phận vững bước và tiến lên trong những năm tháng khó khăn ấy.

Đứng về mặt tự nhiên, t́nh trạng thật bi đát. Nhưng một cây trụi lá như vậy, với quyền năng của Thiên Chúa, vẫn có thể hồi sinh. Và cây ấy đă thực sự hồi sinh. Đó là một cây được trồng bên bờ suối, nên trổ sinh hoa trái đúng mùa.

3. Chín triệu dân sống trên khu vực gần 25 ngàn km2, đó là t́nh h́nh giáo phận Bắc Ninh hiện nay. Công cuộc truyền giáo đă có những kết quả nhất định, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn c̣n mênh mông. Theo tiêu chuẩn quốc tế b́nh thường, giáo phận c̣n thiếu 80 linh mục. Có thể 10 năm nữa giáo phận mới đạt tới t́nh trạng b́nh thường là xứ nào cũng có cha coi sóc. Ngoài ra, giáo phận c̣n thiếu những chuyên gia về Kinh Thánh, về Giáo Luật, về Phụng Vụ, về Thần Học... Bao giờ tất cả các nhà thờ hư hỏng được sửa chữa? Bao giờ th́ giáo họ nào cũng có một ngôi nhà thờ để họp nhau cầu nguyện? Bao giờ th́ tuần nào cũng có thánh lễ trong tất cả các nhà thờ của giáo phận? Bao giờ th́ các cha được nghỉ cuối tuần và nghỉ hè? Bao giờ giáo phận có những cơ sở nuôi dưỡng những người bất hạnh? Bao giờ tỉ lệ tín hữu hiện nay là 1.38 % được nâng lên thành 2%? Những câu hỏi như vậy tuy thật khiêm tốn nhưng vẫn c̣n khá xa vời.. Phaolô trồng cây, Apollo tưới cây, Thiên Chúa cho mọc lên: tạ ơn Thiên Chúa. Vững tin vào ơn Chúa trong quá khứ, chúng ta hăy can đảm thả lưới theo lệnh Chúa, phần c̣n lại là làm cho lưới đầy cá nằm ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng chính Chúa sẽ bảo đảm. Năm sự vui rồi năm sự sáng, năm sự thương rồi năm sự mừng: đó là qui luật của lịch sử thánh.Giáo phận Bắc Ninh nhận Đức Mẹ Mân Côi làm Đấng Bảo Trợ hẳn là nắm vững điều ấy. Ngay trong những lúc gay go nhất, giáo phận đă từng cống hiến những người con ưu tú như thánh linh mục Anrê Dũng Lạc cho giáo phận Hà Nội, thánh linh mục Đaminh Cẩm cho Ḍng Đaminh. Ngoài ra, giáo phận c̣n là nơi nương náu cho thánh Giám Mục Giêrônimô Liêm của giáo phận Đông ở Kẻ Mốt, cho thánh giám mục Valentino Vinh của giáo phận Trung ở Hương La. Chúng ta không chỉ có Thánh Gióng, nhưng c̣n có Chúa Giêsu, không chỉ có Hai Bà Trưng, nhưng c̣n có Mẹ Maria, không chỉ có Bà Chúa Kho, mà c̣n có Mẹ Hội Thánh. Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh và các thánh tử đạo Bắc Ninh là những điểm tựa vững chắc cho toàn thể giáo phận.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng con ngợi khen và tạ ơn Chúa về tất cả những điều kỳ diệu Chúa đă thực hiện cho giáo phận chúng con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp giáo phận chúng con vững bước trên con đường của Chúa Giêsu như Mẹ. Lạy thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh và các thánh tử đạo Bắc Ninh, xin cầu nguyện cho cây đức tin Bắc Ninh mà các ngài đă tưới bằng máu, được lớn lên không ngừng. Cùng với cả giáo phận, chúng con xin thốt lên từ đáy ḷng: Tên chúng con đă được ghi trên trời, muôn đời chúng con xin ca ngợi và tạ ơn Chúa. Amen.

 

Bắc Ninh 29.5.2008

LM. Cosmas Hoàng Văn Đạt

.........................

224 NĂM, NHỮNG THỜI GIAN ĐẦU

Nguồn : GiaDinhBacNinh.Com

 

Năm 1659: Toà Thánh thành lập 2 giáo phận đầu tiên là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khi Toà Thánh thành lập giáo phận Đàng Ngoài th́ vùng đất Bắc Ninh đă có cứ điểm truyền giáo như Kẻ Roi, Kẻ Nê, Kẻ Mốt...

Năm 1679: Toà Thánh chia "giáo phận Đàng Ngoài" thành hai giáo phận, "giáo phận Đông" (Hải Pḥng) và "giáo phận Tây" (Hà Nội), vùng đất Bắc Ninh thuộc "giáo phận Đông", Đàng Ngoài. Lúc đó có 32 nhà thờ với 3.317 giáo hữu; năm 1712 số giáo dân tăng lên là 4.516, được các cha ḍng Tên và sau đó là các cha Đa Minh coi sóc.

Năm 1848: Đức Piô IX chia "giáo phận Đông" Đàng Ngoài thành hai giáo phận, "giáo phận Trung Đàng Ngoài" và "giáo phận Đông Đàng Ngoài" gồm các tỉnh Hải Pḥng, Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc và một phần thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang.

GIÁO PHẬN BẮC NINH ĐƯỢC THÀNH LẬP

Ngày 29-5-1883: Để việc truyền giáo được phát triển, Toà Thánh thành lập thêm một giáo phận mới tách từ giáo phận Đông, đó là giáo phận Bắc, tức là giáo phận Bắc Ninh ngày nay, gồm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, một số huyện của các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội.

1883-1902: Đức cha Antonio Colomer Lễ là vị giám mục tiên khở cho "giáo phận Bắc", lúc ấy giáo phận mới có 17 linh mục triều (Việt), 2 linh mục ḍng Đa Minh, 3 thừa sai người Tây Ban Nha, 15 đại chủng sinh, 22 tiểu chủng sinh, 50 thầy giảng, 8 chị em ḍng Mến Thánh Giá và 35.000 tín hữu trong 11 giáo xứ và 28 giáo họ. Năm 1892 xây nhà thờ chính toà Bắc Ninh.
Năm 1893, sau 10 năm: giáo phận Bắc có 2 Giám mục, chính là Đức Cha Lễ và phó là Đức Cha Khâm, 6 Cha ḍng Đa Minh, 26 Linh mục Việt, 41 Thầy giảng, 8 Đại chủng sinh, 26 Tiểu chủng sinh, 41 Nữ tu ḍng Ba, 23 ngàn 765 giáo dân trong 15 hạt, 160 giáo xứ và họ đạo, 140 nhà thờ.

1902-1925: Thời Đức cha Maximin Valasco Khâm làm giám mục: Năm 1902 xây dựng Đại chủng viện Thánh Tôma tại Đạo Ngạn và tiểu chủng viện ở Kẻ Nê.
Ngày 30-12-1913, Toà Thánh tách một phần đất thuộc giáo phận Bắc để thành lập Phủ doăn Tông toà Lạng Sơn.
Năm 1924, "giáo phận Bắc" được Toà Thánh đổi tên gọi là "giáo phận Bắc Ninh", theo địa danh nơi đặt toà giám mục. Năm 1925 Đức cha Khâm qua đời, thọ 74 tuổi,

1924-1931: Đức cha phó Théodore Gordaliza Phúc lên kế vị. Năm 1928, ngài thành lập xứ Bắc Kạn và năm 1930, ngài giao cho cha Millax xây nhà chung và nhà thờ Bắc Kạn. Ngài qua đời ngày 14-10-1931.

1932-1947: Ngày 6-11-1932, Toà Thánh bổ nhiệm thừa sai Eugène Artaraz Chỉnh làm giám mục hiệu toà Cotenna.. Năm 1939, giáo phận Bắc Ninh có 15 linh mục ḍng Đa Minh, 66 linh mục triều, 120 thầy giảng, 20 đại chủng sinh, 66 tiểu chủng viện, 12 nữ tu Phaolô, 118 d́ phước Đa Minh, 54.807 giáo dân, 800 dự ṭng trong 7 giáo hạt, 47 giáo xứ, 312 giáo họ, 210 thánh đường.
Ngày 31-12-1946, quân Pháp đến Bắc Ninh đưa Đức cha và một số thừa sai Tây Ban Nha về Hà Nội. Tháng 7-1947, Đức cha đi Roma yết kiến Đức Thánh Cha Piô XII, sau đó về Tây Ban Nha và qua đời ngày 21-12-1947.

1947-1950: V́ chiến tranh, Giáo phận Bắc Ninh bị phân đôi. Thời Trống Toà (Sede vacante).

1950-1955: Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn là giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc giáo phận Bắc Ninh. Trước khi thụ phong Giám mục vào ngày 12-3-1950 Ngài là Linh mục ḍng Đa Minh. Ngài là lập lại Chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn (bị giải tán từ năm 1947), xây toà giám mục, trường trung học Vinh Sơn Liêm, nhà in Chân phúc Cẩm và cử 8 cha trẻ đi du học.
Năm 1954, Giáo phận Bắc Ninh có 68 linh mục triều (8 du học), 12 linh mục ḍng Đa Minh, 28 đại chủng sinh, 62 giáo xứ, 413 nhà thờ và 68.000 giáo dân.
Sau hiệp định Genève năm 1954, 47 linh mục và tất cả chủng sinh và gần 40.000 giáo dân di cư vào Nam. Ở lại giáo phận chỉ có 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng, 11 d́ phước Đa Minh và khoảng 30.000 giáo dân.
Năm 1955, Đức cha Đa Minh Hoàng văn Đoàn bị tai nạn phải đi Hồng Kông chữa bệnh, ngài bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Văn Lộc làm Tổng Đại diện, cha Đa Minh Đinh Huy Quảng làm cha xứ nhà thờ chính toà. Sau khi chữa bệnh th́ Ngài về Việt Nam nhưng ở miền Nam. Ngày 18-1-1963 Ngài được bổ nhiện làm giám mục giáo phận Quy Nhơn, qua đời ngày 20-5-1974.

Duc Cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn 1912-1974
Đức Cha Đaminh Hoàng văn Đoàn
Giám mục Bắc Ninh 1950-1955

1956-1963: Giáo phận Bắc Ninh không có giám mục, Đức cha Phêrô Khuất Văn Tạo (Giám mục Hải Pḥng) làm giám quản tông toà giáo phận Bắc Ninh. Thời gian này, ngài chỉ về kinh lư và ban phép Thêm sức được hai lần vào cuối năm 1956 và đầu năm 1957.

1963-1994: Năm 1963, Toà Thánh bổ nhiệm cha Phaolô Phạm Đ́nh Tụng, Giám đốc Tiểu chủng viện Gioan Hà Nội, làm giám mục Bắc Ninh. Ngài thụ phong giám mục ngày 15-8-1963, về nhận giáo phận ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi 5-10-1963. Trong hoàn cảnh rất ít linh mục, Đức cha đă xây dựng, củng cố Ban Hành giáo, sáng lập Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất, sửa và cho in Kinh bản giáo phận Bắc Ninh, cổ vũ ḷng tôn sùng Thánh Tâm Chúa. Tổ chức và kỷ niệm Bách Chu Niên giáo phận (1883-1983).
Năm 1983, đại lễ mừng 100 năm thành lập Giáo phận Bắc Ninh (1883-1993).
Ngày 25-9-1989, Đức cha Phạm Đ́nh Tụng nhận thêm trách nhiệm giám quản giáo phận Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến nhận chức giám mục phó giáo phận Bắc Ninh.
Năm 1994, Đức cha Phạm Đ́nh Tụng chính thức thuyên chuyển về làm tổng giám mục giáo phận Hà Nội, và vinh thăng Hồng y ngày 26-11-1994.

Đức Hồng y Phaolô Phạm D́nh Tụng
Đức Hồng Y Phaolô Phạm Đ́nh Tụng
Giám mục Bắc Ninh 1963-1994

1994-2006: Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến được bổ nhiệm làm giám nục giáo phận Bắc Ninh. Ngày 23 tháng 9 năm 2006, trong lúc đang được chữa trị bệnh ung thư tại Hoa Kỳ, Đức cha Giuse Maria qua đời vào lúc 4 giờ 58 chiều tại bệnh viện Providence, thành phố Portland, tiểu bang Oregon, USA , hưởng thọ 61 tuổi. Đức cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến sinh ra tại xứ Đại Lăm, là vị giám mục giáo phận Bắc Ninh đầu tiên sinh ra từ ḷng đất mẹ của giáo phận. Thi hài của Đức cha Giuse Maria đă được an táng bên tay phải trong ḷng nhà thờ chính toà Bắc Ninh.

Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến
Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến
Giám mục Bắc NInh 1994-2006

Tiểu sử Đức cố Giám mục
Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến

23/9/2006-7/10/2008: Giáo phận trống toà v́ chờ đợi giám mục mới đưọc bổ nhiệm, trong thời gian 2 năm trống toà này, việc hành chính nội ngoại đă được 2 cha đại diện Giuse Trần Quang Vinh và cha Giuse Nguyễn văn Kinh thay phiên nhau đảm nhiệm dưới sự giám quản của Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục Hà Nội. Trong thời gian này giáo phận có 43 linh mục, 268 nữ tu và 39 chủng sinh.

Đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt - Cha Vinh bên trái - Cha Kinh bên phải
Đức tổng Giuse Ngô Quang Kiệt
Giám quản Bắc Ninh 2006-2008
Linh mục đại diện Giuse Trần Quang Vinh
và Đaminh Nguyễn Văn Kinh

7/10/2008: Ngày 4 tháng 8 năm 2008, Đức thánh cha Benađictô bổ nhiện linh mục ḍng Tên Cosma Hoàng Văn Đạt làm giám mục giáo phận Bắc Ninh. Cha Cosma Hoàng Văn Đạt sẽ chính thức được tấn phong Giám mục ngày 7 tháng 10 năm 2008 tại nhà thờ chính toà Bắc Ninh.

Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt
Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt
Giám mục Bắc Ninh 2008 đến hiện nay

 


Những Vị giám mục giáo phận Bắc Ninh từ năm 1883 cho đến hiện nay


Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt
7-10-2008: Tấn phong Giám mục,
Giám mục Giáo phận Bắc Ninh.

 

..........................

 

Lược Sử

Giáo Phận Bắc Ninh

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

A. Lược Sử Giáo Phận Bắc Ninh

Năm 1659, khi Ṭa Thánh thành lập giáo phận Đàng Ngoài th́ vùng đất Bắc Ninh đă có cứ điểm truyền giáo như Kẻ Roi, Kẻ Nê, Kẻ Mốt...

Năm 1679, Ṭa Thánh phân chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận Đông và Tây, vùng đất Bắc Ninh thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài, lúc đó có 32 nhà thờ với 3,317 giáo hữu; năm 1712 số giáo dân đă là 4,516, được các cha ḍng Tên và sau đó là các cha Đa Minh coi sóc.

Năm 1848, Đức Piô IX chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Trung và Đông gồm các tỉnh: Hải Pḥng, Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc và một phần thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang.

Để việc truyền giáo được phát triển, ngày 29-5-1883, Ṭa Thánh thành lập giáo phận mới: Giáo phận Bắc (tức Bắc Ninh ngày nay) từ giáo phận Đông tách ra, gồm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, một số huyện của các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội.

Nhân sự giáo phận Bắc lúc đó có Đức cha Antonio Colomer Lễ (làm giám mục Bắc từ 1883-1902), 17 linh mục triều, 2 linh mục ḍng Đa Minh, 3 thừa sai người Tây Ban Nha, 15 đại chủng sinh, 22 tiểu chủng sinh, 50 thầy giảng, 8 chị ḍng Mến Thánh Giá và 35,000 tín hữu trong 11 giáo xứ và 28 giáo họ.

Đức cha Maximin Valasco Khâm (làm giám mục từ 1902-1925), xây dựng Đại chủng viện Thánh Tôma tại Đạo Ngạn và tiểu chủng viện ở Kẻ Nê.

Ngày 30-12-1913, Ṭa Thánh tách một phần đất thuộc giáo phận Bắc để thành lập Phủ Doăn tông ṭa Lạng Sơn.

Năm 1924, giáo phận Bắc được Ṭa Thánh đổi tên gọi là giáo phận Bắc Ninh, theo địa danh nơi đặt ṭa giám mục.

Năm 1925, Đức cha Khâm qua đời, thọ 74 tuổi, Đức cha phó Théodore Gordaliza Phúc lên kế vị (từ 1924-1931). Năm 1928, ngài thành lập xứ Bắc Kạn và năm 1930, ngài giao cho cha Millax xây nhà chung và nhà thờ Bắc Kạn. Ngài qua đời ngày 14-10-1931.

Ngày 6-11-1932, Ṭa Thánh bổ nhiệm thừa sai Eugène Artaraz Chỉnh làm giám mục hiệu ṭa Cotenna (từ 1932-1947).

Năm 1939, giáo phận Bắc Ninh có 15 linh mục ḍng Đa Minh, 66 linh mục triều, 120 thầy giảng, 20 đại chủng sinh, 66 tiểu chủng sinh, 12 nữ tu Phaolô, 118 d́ phước Đa Minh, 54,807 giáo dân, 800 dự ṭng trong 7 giáo hạt, 47 giáo xứ, 312 giáo họ, 210 thánh đường.

Ngày 31-12-1946, quân Pháp đến Bắc Ninh đưa Đức cha và một số thừa sai Tây Ban Nha về Hà Nội.

Tháng 7-1947, Đức cha đi Rôma yết kiến Đức Thánh Cha Piô XII, sau đó về Tây Ban Nha và qua đời ngày 21-12-1947.

Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn là giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc giáo phận Bắc Ninh (1950-1955).

Ngài lập lại Chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn (bị giải tán từ năm 1947), xây ṭa giám mục, trường trung học Vinh Sơn Liêm, nhà in Chân Phước Cẩm và cử 8 cha trẻ đi du học.

Năm 1954, Giáo phận Bắc Ninh có 68 linh mục triều (8 du học), 12 linh mục ḍng Đa Minh, 28 đại chủng sinh, 62 giáo xứ, 413 nhà thờ và 68,000 giáo dân.

Sau hiệp định Genève năm 1954, 47 linh mục và tất cả chủng sinh và gần 40,000 giáo dân di cư vào Nam. Ở lại giáo phận chỉ có 14 linh mục hầu hết già yếu, 12 thầy giảng, 11 d́ phước Đa Minh và khoảng 30,000 giáo dân.

Năm 1955, Đức cha bị tai nạn phải đi Hồng Kông chữa bệnh, ngài bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Văn Lộc làm Tổng đại diện, cha Đa Minh Định Huy Quảng làm cha xứ nhà thờ chính ṭa.

Đức cha Phêrô Khuất Văn Tạo (Giám mục Hải Pḥng) làm giám quản tông ṭa giáo phận Bắc Ninh từ 1956-1963. Thời gian này, ngài chỉ về kinh lư và ban phép Thêm Sức được hai lần vào cuối năm 1956 và đầu năm 1957.

Năm 1963, Ṭa Thánh bổ nhiệm cha Phaolô Phạm Đ́nh Tụng, Giám đốc Tiểu chủng viện Gioan Hà Nội, làm giám mục Bắc Ninh. Ngài thụ phong giám mục ngày 15-8-1963, về nhận giáo phận ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi 5-10-1963.

Trong hoàn cảnh rất ít linh mục, Đức cha đă xây dựng củng cố Ban Hành Giáo, sáng lập Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất, sửa và cho in Kinh bản Gáo phận Bắc Ninh, cổ vũ ḷng tôn sùng Thánh Tâm Chúa. Tổ chức và kỷ niệm Bach Chu Niên giáo phận (1883-1983). Sau đó, Đức cha được thuyên chuyển về Tổng Giáo Phận Hà Nội (1994) và vinh thăng Hồng Y ngày 26-11-1994.

Từ năm 1994 Đức cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến coi sóc giáo phận.

B. Địa Lư và Dân Số

Ranh giới: Giáo phận Bắc Ninh nằm trên địa bàn 5 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; 3 huyện thuộc Thành Phố Hà Nội và một số xă, huyện thuộc các tỉnh: Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Hưng Yên, Hải Dương.

Tổng dân số địa phương khoảng 6,909,296 người, có khoảng 123,090 giáo dân công giáo, sinh sống trên diện tích là 24,600 km2.

Dân cư vùng đồng bằng và trung du đa số sinh sống bằng nghề nông. Vùng thượng du ngoài nghề nông là chủ yếu, c̣n có thêm phụ thu nhờ lâm sản.

Một số sông lớn chảy trên địa bàn giáp phận là: sông Đuống, sông Hồng, sông Thái B́nh, sông Lô, sông Gầm, sông Cả, sông Đáy Trên, sông Cầu, sông Công, sông Cà Lỗ, sông Thương, sông Lục Nam.

Sắc tộc Trên địa bàn giáo phận, miền thượng du có một số đồng bào dân tộc ít người như: Sán D́u, H'Mông, Dao, Mèo, Cao Lan, Hoa, Tày, Nùng sinh sống.

C. Các hoạt động đặc biệt của giáo phận

- Phục hồi các giáo xứ và giáo họ:

Sau cuộc di cư ồ ạt vào Nam của hơn 40,000 giáo dân và gần 50 linh mục của giáo phận Bắc Ninh năm 1954, chỉ c̣n lại 14 linh mục già yếu, nhiều giáo xứ, họ đạo chỉ c̣n lẻ tẻ một vài gia đ́nh. Điển h́nh như nhà xứ Ngăm Giáo chỉ c̣n 3 người, nhà xứ họ Phượng Mao chỉ c̣n 7 người. Từ sau năm 1975, một số giáo dân đi làm ăn xa đă trở về quê cũ sinh sống. Do đất chật người đông, bà con lương dân chung quanh đă di chuyển đến làm ăn sinh sống tại các giáo xứ, giáo họ có nhà bỏ trống. Sau nhiều năm, nhờ ảnh hưởng đời sống tốt lành của người Công Giáo, nhiều lương dân gia nhập đạo, số tín hữu gia tăng, nhiều thánh đường đă được tu sửa lại và các sinh hoạt tôn giáo được phục hồi.

- Đi t́m giáo dân và quy tụ thành họ đạo:

Trong thập niên 1960, nhiều người từ những vùng đất chật người đông như Thái B́nh, Nam Định... đă đến khai hoang lập nghiệp tại các vùng xa xôi hẻo lánh thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang... (vùng đất thuộc giáo phận Bắc Ninh) trong đó có nhiều gia đ́nh Công giáo. Cả vùng rừng núi rộng lớn đó mấy chục năm không có linh mục phục vụ giáo dân, thỉnh thoảng mới có người về quê cũ để giữ luật Giáo Hội, nhiều người đức tin phai nhạt, ngăn trở hôn nhân gia tăng. V́ thế, việc t́m kiếm giáo dân luôn là vấn đề bức xúc của giáo phận Bắc Ninh.

Từ thập niên 1990, việc đi lại dễ dàng hơn, nhiều tông đồ giáo dân đă được sai đi, âm thầm len lỏi t́m kiếm từng người, từng gia đ́nh, dạy giáo lư, giúp họ cầu nguyện, quy tụ thành những nhóm và đưa về tháo gỡ những ngăn trở hôn nhân, tổ chức thành họ đạo.

- Huấn luyện tông đồ giáo dân:

V́ địa bàn của giáo phận rộng lớn, địa h́nh phức tạp (đặc biệt ở miền núi), linh mục lại quá ít, làm sao có thể quy tụ được giáo dân. V́ vậy, việc thành lập Huynh đoàn Đa Minh giáo dân, Gia Trưởng, Bà Mẹ Công Giáo, ca đoàn, giới trẻ, giáo lư viên, Thiếu Nhi Thánh Thể, là khâu quan trọng của giáo phận. Ban Hành Giáo được huấn luyện để trở nên những cộng sự viên tích cực và trung thành trong việc quản lư nhà thờ, đất đai và tài sản của giáo xứ. Được cha xứ trao quyền, Ban Hành Giáo chủ sự việc suy tôn Lời Chúa ngày Chủ Nhật và lễ trọng trong nhà thờ, rửa tội cho trẻ sơ sinh, điều tra hôn phối, đôn đốc viêc học giáo lư, trao Ḿnh Thánh cho bệnh nhân... Các đoàn thể Công Giáo được đào tạo để trở nên ṇng cốt trong việc cầu nguyện tại nhà thờ và gia đ́nh, trong việc học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, bài trừ những tệ nạn xă hội, nâng cao tŕnh độ văn hóa, xây dựng nếp sống phù hợp với Tin Mừng và tham gia vào việc truyền giáo tại địa phương ḿnh.

Mối dây liên kết giữa các giáo hạt, giáo xứ, giáo họ cũng như sự gắn bó mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận được duy tŕ và phát triển để cùng hướng tới lời cầu của Đức Kitô: "Xin cho mọi người nên một".

- Đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ:

Cánh đồng truyền giáo của giáo phận mênh mông trên địa bàn 24,600 km2, với số dân gần 7 triệu người, mà chỉ có 120,000 giáo dân. Giáo phận rất ít linh mục, nam nữ tu sĩ. Do vậy việc cổ vũ và đào tạo ơn gọi làm linh mục và tu sĩ là một mối quan tâm của giáo phận.

- Việc xây dựng nhà thờ:

Giáo dân Bắc Ninh gặp nhiều gian khổ, song vẫn c̣n duy tŕ được đức tin cho đến ngày hôm nay một phần lớn là nhờ vào việc cầu nguyện chung, suy tôn Lời Chúa và dạy giáo lư tại nhà thờ. V́ thế nhà thờ rất cần thiết để giúp họ đạo sống động.

Trải qua nhiều biến động thời cuộc từ năm 1947, nhiều nhà thờ trong giáo phận bị tiêu thổ kháng chiến, bị chiến tranh tàn phá, bị thời gian, băo lụt hủy hoại. Cho đến nay, đă xây lại và làm mới được 56 nhà thờ và nhà nguyện, nhưng trong giáo phận vẫn c̣n gần trăm nhà thờ xuống cấp nặng và 76 họ đạo chưa có nhà thờ.

Đây là mối quan tâm lớn của mọi thành phần Dân Chúa giáp phận Bắc Ninh.

- Hội nhập văn hóa:

Bắc Ninh là nơi có truyền thống Dân Ca Quan Họ trong các lễ hội. Những làn điệu quan họ đă ngấm vào máu thịt quần chúng. Việc dùng những làn điệu dân ca để suy niệm Lời Chúa trong các buổi cầu nguyện, giới thiệu và phổ biến Tin Mừng bằng h́nh thức văn nghệ đă mang lại những kết quả bước đầu. "Dâng Hoa Thánh Tâm" đă được dệt ư Thánh Vịnh vào làn điệu quan họ, Hoạt cảnh "Mười cô trinh nữ" (x. Mt. 25,1-13) trở nên sinh động hơn, thấm nhập vào ḷng người sâu xa hơn khi được ca vang với làn điệu Quan Họ. Đó là kết quả ban đầu của hội nhập văn hóa trong giáo phận.

D. Một số đặc sắc của Giáo Phận:

- Nhà thờ chính toà: Khởi công xây dựng năm 1889, hoàn thành năm 1982, trùng tu năm 1990. Ṭa Thánh ban đặc ân vĩnh viễn được hành hương để lănh ơn Toàn Xá. Địa điểm: Thị xă Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh.

- Cổng Tả thành Bắc Ninh: Nơi hành quyết nhiều vị tử đạo, đặc biệt có 100 vị "đầu mục" và "thứ mục" bị hành quyết bằng cách chôn sống tại đây năm 1862. Địa điểm: thị xă Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

 

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)

 

Nguồn : http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnchurch/vnchurch.htm

 


H́nh ảnh Giáo phận Bắc Ninh

Xem

* Giáo phận Bắc Ninh kỷ niệm 130 năm thành lập (29/5/2013)

 

[Trở về đầu trang ]