
Lược
sử Giáo xứ An Ngãi
Giáo xứ
An Ngãi thuộc xã Hòa Sơn huyện Hòa Vang, cách thành phố Đà
Nẵng chừng 20km về phía tây. An Ngãi là một trong những
giáo xứ được các Cố Tây gieo hạt giống Tin Mừng sớm trên
quê hương Đà Nẵng. Hiện nay, An Ngãi trở thành một giáo xứ
có số giáo đông nhất so với các giáo xứ trong Giáo phận.
I.
Hình Thành.
An Ngãi
ngày xưa gọi là Bàu Nghè, nguyên là đất của Chiêm Thành. Theo sử
lược Trần Trọng Kim, năm 1471 Vua Lê Thánh Tông đại phá Chiêm - Quốc,
thành lập Thừa Tuyên Đạo Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa
và Hoài Nhơn. Tuy nhiên, huyện Hòa Vang và Điện Bàn vẫn còn thuộc về
phủ Triệu Phong trong đạo Thừa – Tuyên Thuận Hóa. Triều đình đã đưa
dân từ Thanh – Nghệ - Tịnh vào khai hoang lập ấp. Họ được Phúc Âm
hóa thời nào, do vị thừa sai nào tiếp xúc trước tiên thì không thấy
ghi trong lịch sử. Chỉ biết ngày 26 tháng giêng năm 1670, Cố
Hainques, một vị thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo Balê phụ trách Giáo
xứ Hội An đã đáp ứng lời mời của giáo dân Bàu Nghè, đến ở với họ 4
tháng, làm lễ, ban các bí tích và giải vạ cho những người yếu đuối
đã chối đạo trong thời gian cấm cách năm 1665 dưới trào Chúa Nguyễn
Phúc Tần. Cha Hainques rửa tội thêm 500 tân tòng ở Phường Trạc, Bàu
Nghè và Mỹ Sơn, 700 người ở Cửa Hàn và 124 người ở Phường Tây.
Tháng 10
năm 1670 Cha Claude Guyart đến nhận ở Bàu Nghè, thời kỳ này, toàn
Tổng đã theo đạo, nên mới có biệt danh Tổng Giáo với số tín đồ 8.000
người và 4 nhà thờ. Cha Guyart qua đời ở Bàu Nghè ngày 24 tháng 5
năm 1673.
Tháng 12
năm 1674 cha Courtaulin gửi tờ trình lên Đức Cha Lambert de la
Motte, báo cáo tình hình giáo xứ Bàu Nghè, Cha cho biết giáo dân
đã thi hành nghiêm túc chỉ thị của Công Đồng Triđentinô trong phụng
vụ. Cha thành lập một nghĩa trang và một trường học trên mặt bằng mà
ngày nay còn gọi là Vườn Trường. Cha cắt nghĩa giáo lý Kinh Tin Kính,
7 phép bí tích, 10 điều răn. Chỉ trong vòng hai tháng Cha rửa tội
được 358 người, sau đó rửa tội thêm 100 người nữa.
Ngày 01
tháng 01 năm 1677, Cha Courtaulin trình cho Đức Cha Lambert de la
Motte biết : Đất làm nhà thờ Bàu Nghè do ông Xã trưởng đã bỏ đạo,
nay ăn năn trở lại dâng cúng. Để hợp thức hóa giấy tờ , Cha quyết
định làm giấy mua với giá 4 quan tiền, và số tiền này do giáo
dân cùng với ngài đóng góp. Có được mãnh đất, ngài quyết
định xây dựng ngôi nhà Chúa. Thầy giảng Dominico sợ chính quyền
làm khó dễ việc xây nhà thờ và trường học, nên đề nghị Cha lánh mặt
một thời gian, nhưng nhờ sự che chở của Thiên Chúa, mọi việc
hoàn tất yên lành. Ngôi nhà thờ hoàn tất, ngài được sai đến
Phú Chuyên, rồi sau đó ra đến Huế.
Năm 1678
Cha Le Noir đến thay, thấy Bàu Nghè có 4 nhà thờ với số giáo dân
trên 8.000, cần phải có Cha ở thường trực, bề trên chấp thuận đề
nghị, bổ nhiệm Cha Le Noir làm quản xứ đầu tiên Giáo xứ Bàu Nghè,
phụ trách luôn cả 3 giáo xứ kia. Cha Le Noir là vị thừa sai tiên
khởi được bổ nhiệm làm Quản xứ với mọi quyền hạn theo Giáo luật. Hai
năm sau Cha đi Cambót rồi trở về Ninh Hòa và qua đời tháng 12 năm
1685.
II.
Các thời kỳ
Ngày 17
tháng 11 năm 1682 Cha Laneau đến Bàu Nghè thay Cha Le Noir, lúc
bấy giờ, miền này đã có 21 nhà thờ, tuy bằng gỗ nghèo nàn đơn sơ.
Một số giáo dân mới trở lại đạo, đời sống luân lý đạo
đức chưa thấm nhuần tình thần của đạo Chúa nên trong lưu ký
của Ngài đã viết: Mỹ Sơn bổn đạo lôi thôi nguội lạnh cho vay đặt
nợ, ly dị, vợ 2 vợ 3 làm mất uy tín Bàu Nghè.
Lễ Lá năm
1700 nhà thờ Hàn bị lính xét, đến thứ Sáu Tuần Thánh, một ông Quan
dẫn lính đến lục soát nhà thờ Bàu Nghè đang khi Cha Godefroi đang
dâng lễ và có đến 600 giáo dân tham dự. Thế nhưng, mọi người
mạnh dạn xưng đức tin. Quan truyền đóng gông 4 thầy giảng, buộc giáo
dân chịu trách nhiệm giữ Cha sở không cho ra khỏi làng. Quan đòi
nộp phạt 400 quan tiền, nhưng nhờ mấy người có đạo ở Cửa Hàn quen
thân với Quan tỉnh can thiệp, xin trả tự do cho 4 thầy và nhận lại
đồ thờ phượng.
Lễ Phục
Sinh sau đó, mọi sự yên ổn trở lại. Cha Godefroi coi sóc 4.000
giáo dân ở rải rác trong nhiều chi họ, sau tăng lên 10.000. Công
việc mục vụ với số giáo dân đông, đi lại khó khăn, làm cho
cha sở kiệt. Ngày 06 tháng 7 năm 1715, Cha đi kẻ liệt nửa ngày
đường, nắng nóng gây gắt của tháng 7, khi về đến nhà bị cảm sốt
nặng, vì thiếu thuốc men, nên 5 ngày sau Cha qua đời. Thi hài Cha
Godefro được an táng bên phần mộ Cha Guyart.
Đời Chúa
Ninh Vương (1724 - 1737) Giáo hội được bằng yên, nhưng trong cơn
bách hại vừa qua dưới thời chúa Minh Vương, số giáo dân giảm mất
1/3. Nguyên của việc giảm sút này là chết vì đạo, chết đói
trong tù, trong rừng, hay đã chối đạo.
Năm 1737,
Võ Vương lên ngôi, ông ra lệnh bắt đạo, 26 linh mục thừa sai bị bắt
trong tháng giêng năm 1750, bị đuổi về nước, chỉ trừ một mình Cha
Koffler Dòng Tên được tự do, vì Cha là quan Ngự Y của nhà nước. Đức
Cha Leffebvre cũng phải trốn qua Cao Miên và chết bên đó năm 1760.
Tháng 7 năm 1775 Cha Halbout gửi tờ trình về Hội Truyền Giáo Balê
báo cho biết 2 Giáo xứ Cửa Hàn và Cầu Né bị tiêu diệt hoàn toàn vì
chiến tranh. Họ Bàu Nghè đông giáo dân cũng bị thiệt hại nặng nề. Từ
tháng 4 đến tháng 9 âm lịch, có 600 người chết đói, một địa sở khác
có 150 người chết. Lúc này, Quân Tây Sơn đã đốt trên 100 nóc nhà ở
Bàu Nghè, các nơi khác cũng chung số phận như vậy.
Năm 1802
Gia Long thống nhất sơn hà, hòa bình tái lập, Bàu Nghè lo gầy dựng
lại Giáo xứ, và số giáo dân mỗi ngày gia tăng.
Minh Mạng
ngũ niên 1825, ban Sắc chỉ cấm đạo lần thứ nhất, tiếp đến Sắc chỉ
thứ hai năm 1833, số người Công giáo bị sát hại nặng nề với
hai sắc chỉ này. Bổn đạo Bàu Nghè được vinh dự đón Đức Giám Mục
Stêphanô Cuénot Thể Giáo phận Quy Nhơn về ẩn nấp dưới thời
cấm cách. Vị Thánh Giám mục này đã ẩn trốn tại đây 16 tháng vào
năm 1838, di tích hiện còn một cái giếng cạn và hầm trú ẩn, sau đó
sợ ở lâu ngày lộ tông tích, gây phiền lụy cho con chiên, nên Ngài
trốn vào Gò Thị. Cuối cùng, Ngài đã bị bắt, và chết trong tù
tại đây ngày 14 tháng 11 năm 1861.
Năm 1841
Minh Mạng té ngựa băng hà, Thiệu Trị nối ngôi. Vị vua mới này
không tàn ác như vua cha, giáo dân được hưởng một thời gian hòa hoãn,
lấy lại sinh khí, chuẩn bị đương đầu với cơn bão tố dữ dằn sắp đến
dưới thời Tự Đức và Văn Thân 1885.
Tự Đức
Nguyên niên 1848, ban hành Sắc chỉ cấm đạo, và hai năm kế tiếp 1849
– 1850, cả nước bị bệnh dịch tả, và nhiều người chết trong giai
đoạn dịch bệnh này. Thiên tai vừa xong thì năm 1851, Tự Đức ban
hành Chiếu chỉ cấm đạo thứ hai, rồi một chuỗi Chiếu chỉ kế tiếp.
Nặng nề hơn cả là Sắc chỉ Phân Sáp năm 1860, chủ trương phân mỏng
người có đạo, bắt mỗi người đi mỗi nơi, sáp nhập với người lương.
Đất đai vườn tược, nhà cửa người có đạo hoặc bị đốt hay về tay đồng
bào ngoại giáo. Đây là thời Tử Nạn cay đắng của Giáo Hội Việt
Nam. Con chiên
Bàu Nghè cũng đồng chia số phận hẩm hiu chua xót này với anh em đồng
đạo Công giáo khắp nơi.
Tháng 3
năm 1862 Cha Đặng Đức Tuấn dâng lên nhà vua 2 tập Điều Trần, Vua Tự
Đức bằng lòng chuẩn y những lời thỉnh cầu, hạ chỉ tha nam phụ lão ấu
có đạo được lui hồi bản hương.
Giáo dân
Bàu Nghè trở về tái thiết lại sau thời gian bị phân chia tang tóc.
Hòa bình không kéo dài được bao lâu, năm 1885, phong trào Cần Vương
nổi lên, An Ngãi bị quân của Án Nại tức Thống Hai thiêu hủy. Giáo
dân bồng bế nhau chạy vào Phú Thượng núp bóng Cố Thiên.
Sau ngày
Thống Hai tử trận ở Lộc Hòa, áp lực Cần Vương được giải tỏa, giáo
dân An Ngãi lại trở về Giáo xứ của mình.
Qua cơn
ác mộng Cần Vương, Giáo xứ An Ngãi hăng hái xây dựng trở lại.
Chỉ trong thời gian ngắn, họ đạo này đã lấy lại sức sống, và tiếp
tục viết tiếp những trang sử hào hùng sau đó.
Từ năm
1885, An Ngãi đã được hướng dẫn bởi các chủ chăn
1/ Cha
Phêrô Lê Du (1887 – 1892)
2/ Cha
Antôn Nguyễn Phận
3/ Cha
Phêrô Nguyễn Văn Lục
4/ Cha
Jeanningros Vị, sau này là Giám mục phó Đức Cha Đamiano Grangeon
Mẫn.
5/ Cha
Bạch, Thừa sai Pháp.
6/ Cha
Phêrô Nguyễn Văn Khoa
7/ Cha
Emlie Laborier Hảo
8/ Cha
Giuse Hậu
9/ Cha
Phaolô Thì
10/ Cha
Augustino Nguyễn Thanh Long
11/ Cha
Micae Ngô Trung Lành
12/ Cha
Phaolo Nguyễn Tưởng
13/ Cha
Phaolo Nguyễn Biên
Vào
thời điểm này cách mạng tháng tám bùng nổ, Ủy ban toàn
quốc khởi nghĩa kêu gọi tiêu thổ kháng chiến. Giáo dân An
Ngãi, Phú Thượng phải bỏ nhà cửa tản cư lên rừng sâu nước
độc Cao Sơn, Phú Trung, Hòa Mỹ ẩn trốn.
Cha Lê
Văn Ấn, sau khi du học ở Roma về, Ngài được sai đến với
đoàn chiên An Ngãi. Về nhiệm sở trong thời chinh chiến, cha
đem hết khả năng giúp con chiên, giúp sống ấm no đạo đức,
sửa sang nhà cửa, mở mang trường học, phát động công tác
bác ái từ thiện, giúp đỡ người nghèo khổ bệnh tật.
Năm 1956,
Cha Giuse Ấn đổi về Đà Nẵng. Và năm 1965, Ngài được Tòa
Thánh Bổ nhiệm Giám mục Chính Tòa Giáo phận Xuân Lộc, và
qua đời tại đó.
Thay vào
đó là Cha Luis Huỳnh Nhẫn, người Gò Thị, con cháu của
thánh Anre Kim Thông. Chính ngài đã có công xây dựng cây tháp
trước tiền đường.
Từ năm
1958- 1962, An Ngãi được coi sóc bởi Cha Dominico Chân Phận.
Từ năm
1963- 1965, Cha Phêrô Nguyễn Đức Mân tiếp nối hướng dẫn đàn
chiên An Ngãi. Lúc này giáo xứ cùng ngài đã xây dựng hang
Lộ Đức, nhất là ngài kêu gọi đoàn chiên sùng kính Đức Mẹ
trên đồi Cây Sơn.
Cha Phêrô
Trần Anh Tước, quản xứ từ 1966-1970. Lúc này, số giáo dân
đông hơn, Giáo xứ đã nới rộng nhà thờ, chỉnh sửa cung
thánh thêm khang trang thoáng rộng.
Từ năm
1970- 1992, An Ngãi được dìu dắt bởi Cha Phaolô Võ Hữu Tư.
Ngài từ giả Vĩnh Điện về làm quản xứ An Ngãi kiêm hạt
trưởng Hòa Khánh. Tuy tuổi già sức yếu, song tinh thần phục
vụ rất cao, Ngài đã đem hết sức lực của ngài để phục vụ
nơi đây, ngài đã có công mở lại chi họ Hòa Mỹ, tu bổ lại
ngôi tháp nhà thờ.
Từ Năn
1992-1994 Cha Goan B. Nguyễn Văn Đán từ Phú Thượng về làm
quản xứ An Ngãi. Tuy thời gian quá ngắn, nhưng với tài trí
Ngài đã đổi mới, củng cố lại ban đại diện Giáo dân, các
đoàn thể, cũng như quan tâm đến nghi thức phụng vụ trong dân
thánh tại đây. Đặc biệt, thời gian này, giáo xứ đã trùng
tu xây dựng lại nhà xứ và xây mới nhà thờ giáo họ Hội Yên.
Mới làm quen với đoàn chiên chưa đầy 2 năm, vì do nhu cầu
của Giáo phận, Ngài về Tòa Giám Mục với chức vụ Tổng
đại diện, hiện ngài là giám đốc Đại Chủng Viện Huế. Trong
thời gian này, có cha Phó Anton Trương Gia Ninh phụ giúp với
ngài, hiện là quản xứ Gia Phước.
Cha
Gioakim Trần Kim Thượng coi sóc An Ngãi từ 1994-2009. Mới về
nhận xứ, thấy nhu cầu sinh hoạt của giáo xứ mỗi ngày một
lớn cho phù hợp với đà phát triển của thành phố Đà Nẵng,
Ngài cùng với giáo xứ xây dựng lễ đài ngoài trời, sắm
sửa âm thanh để cử hành các thánh lễ lớn với lượng giáo
dân đông đúc. Giáo xứ cũng làm sân và con đường lên nhà thờ,
sửa chữa và quét vôi mới toàn bộ nhà thờ, đóng mới toàn
bộ ghế ngồi, làm cho khuôn viên nhà thờ thêm khang trang sạch
sẻ hơn. Giáo xứ khởi công xây dựng nhà hội, nhà giáo lý
kiên cố, để cho giáo xứ cũng như các em thiếu nhi có nơi
học tập, hội họp sinh hoạt. Không dừng lại ở đó, một lúc
hai công việc: Giáo xứ bê tông hóa con đường lên nghĩa địa,
lập nên khu đất dành riêng để an táng các linh mục trong
Giáo phận qua đời tại trung tâm nghĩa địa của giáo xứ, và
xây mới lễ đài tại đồi Núi Sọ, nơi cử hành Thánh lễ Tro
khai mạc Mùa chay hằng năm của Giáo phận. Để cho khuôn viên
nhà thờ được mở rộng khang trang, có nơi sinh hoạt, giáo xứ
đã mua thêm một thửa đất của một người giáo dân trong xứ.
Ngoài ra, giáo xứ còn xây dựng tượng đài Thánh Giuse để
đoàn chiên sớm hôm cầu nguyện. Vì lớn tuổi, Ngài đã được
Đức cha Giuse thuyên chuyển về quản xứ Cẩm Lệ nhỏ hơn để
bớt gánh nặng cho Ngài. Tạ ơn Chúa qua 15 năm phục vụ tại
An Ngãi!
Trong 15
năm Quản xứ An Ngãi, Cha GioaKim đã có được các cha phó phụ
giúp:
1. Cha
Daminh Trần Công Danh (2001-203)
2. Cha
Giuse Nguyễn Văn Khang (2003- 2005)
3. Cha
Giuse Hoàng Quốc Duy Linh (2005-2007)
4. Cha
Phêro Trần Công Thạnh (2005-2008)
5. Cha
Đaminh Nguyễn Công Chính (2006-2009)
III.
Hiện Tình Giáo xứ
Từ ngày
25 tháng 8 năm 2009, Cha Giuse Nguyễn Văn Thú sau thời gian du
học Philiphin về, Ngài được sai đến với đoàn chiên An Ngãi.
Ngài đã đem hết tài trí đã tích lũy và học tập được để
xây dựng và đổi mới giáo xứ mỗi ngày cho hợp với đã tiến
của xã hội. Ngài đã đưa ra nhiều chương trình về giáo dục
đức tin cũng như về giáo dục nhân bản cho con em thiếu nhi
trong giáo xứ. Hiện ngài rất quan tâm đến vấn đề giáo dục
trong giáo xứ, hầu đào tạo thế hệ tín hữu trưởng thành
thật sự về mọi mặt trong tương lai. Phụ giúp lúc này với
ngài có Cha phó Đaminh Phan Châu Bảo.
Bên cạnh
cha quản xứ, cha phó còn có sự hổ trợ đắc lực của cộng
đoàn nữ tu dòng Thánh Phaolo Đà Nẵng. Các nữ tu hằng ngày
hăng say phục vụ, hầu đưa giáo xứ mỗi ngày một đi lên, xứng
tầm với một giáo xứ lớn, kỳ cựu trong Giáo phận.
Theo
thống kê hiện nay, Giáo xứ An Ngãi có khoảng 4805 giáo dân,
1180 hộ. Giáo xứ được tổ chức bởi hội đồng giáo xứ, các
hội đoàn như Lêgio, Hùng Tâm Dũng Chí, và các giới sinh
hoạt cũng đều đặng như Giới Hiền Mẫu, Gia Trưởng, Lão
Thành, Trung Niên, và cả giới trẻ. Tất cả góp phần làm cho
xứ đạo tràn đầy sức sống.
Nhờ
công lao của bao tiền nhân anh hùng mà Giáo xứ An Ngãi ngày
hôm nay lớn mạnh như cây cổ thụ sum sê, và cũng như Phú
Thượng, Trà Kiệu qua bao thế hệ, An Ngãi đã hiến dâng cho
Giáo hội nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ. Hiện nay, có một số
linh mục đang sống và phục vụ tại Giáo phận nhà:
1. Đức
Cha Fx. Nguyễn Quang Sách, đang nghỉ hưu tại Tòa Giám Mục
2. Cha
Anton Nguyễn Trường Thăng, hiện quản xứ kiêm hạt trưởng Hội
An
3. Cha
Phêro Trần Công Thạnh, quản xứ Hội Yên
4. Cha
Anton Nguyễn Thanh Vũ, phó Tam Kỳ
5. Cha
Phaolo Lê Tấn Kính, hiện đang học tại Sài Gòn.
Giáo xứ
An Ngãi có được ngày hôm nay cũng đã trải qua những thăng
trầm buồn vui trong suốt chặng đường dài. An Ngãi cổ kinh
ngày xưa đã có nhiều thay đổi tích cực theo đà tiến triển
chung của xã hội. Tuy nhiên, cũng không thiếu những bóng đen
tiêu cực. Mỗi người, mỗi gia đình, và cả giáo xứ hãy cố
gắng duy trì những nét đẹp vốn có, để làm muối, làm men
trong môi trường sống. Những gì chưa tốt làm ảnh hưởng đến
việc loan báo Tin Mừng, mỗi ngày hãy cầu xin Chúa Thánh
Thần đến canh tân, đổi mới trong chính tâm hồn cũng như gia
đình và giáo xứ, hầu làm cho Nước Chúa được cả sáng trên
quê hương An Ngãi.
Kính chúc mọi người ơn
bình an của Đức Kitô Phục Sinh.
* Nguồn : Trang nhà Giáo phận Đà
Nẵng
|