|

Lược
sử Tổng Giáo Phận Hà Nội
Nguồn :
Vietnamese Missionaries in Asia
A. Lược Sử
Tổng Giáo Phận Hà Nội
Lịch sử của Tổng Giáo Phận Hà
Nội đă trải qua gần 400 năm h́nh thành và phát triển. Trong đó các
thừa sai ḍng Tên, Hội Thừa Sai Paris cùng với hàng giáo sĩ, tu sĩ
và giáo dân Việt Nam, nhờ ơn Chúa, đă đóng góp hết ḿnh để làm nên
trang sử của Tổng Giáo Phận và tô đậm ḍng lịch sử Giáo Hội Việt
Nam. Quá tŕnh lịch sử này được tóm gọn theo ba thời kỳ: thời kỳ
giáo sĩ ḍng Tên, thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) và thời kỳ nằm
dưới triều vua Lê - chúa Trịnh, triều Nguyễn, thời Pháp thuộc cho
đến khi đất nước độc lập, thống nhất.
1.
Thời các giáo sĩ ḍng Tên (1626-1663, vua Lê - chúa Trịnh)
Năm 1626, cha Giuliano
Baldinotti, người Ư, và thầy Piani, người Nhật, là hai thừa sai đầu
tiên được cử tới Kẻ Chợ (Thăng Long), hai vị được chúa Trịnh Tráng
đón tiếp cách đặc biệt và cho tự do truyền giáo v́ lúc đó nhà chúa
đang cần vũ khí của người nước ngoài để chống lại chúa Nguyễn ở Đàng
Trong. Hai vị không biết tiếng (phải nói qua thông dịch hay bút đàm),
nên cha Baldinotti liều viết thư xin các cha ḍng Tên ở Đàng Trong
ra trợ giúp. Sự việc này khiến chúa Trịnh nghi ngờ và tạo dịp cho
một số quan lại chống đối. Sau 5 tháng tại Thăng Long, hai vị rửa
tội được bốn trẻ nhỏ hấp hối. Phái đoàn rời Thăng Long và về tới
Macao ngày 16-9-1626 (x. Đắc Lộ, Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài).
Như được chuẩn bị từ trước,
cha Giám tỉnh ḍng Tên cử hai cha Marques (đến Đàng Trong từ năm
1618) và cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) (đến Đàng Trong từ năm
1624), từ Đàng Trong về Macao năm 1626, để chuẩn bị vào Đàng Ngoài.
Ngày 12-3-1627, từ Macao cha Marques và Đắc Lộ lên đường và tới Cửa
Bạng (Thanh Hóa) ngày 19-3-1627.
Sau vài ngày rao giảng Tin
Mừng tại Cửa Bạng, có 2 người xin ṭng giáo mang tên Thánh Giuse và
Inhaxiô. Trong 2 tuần đợi lệnh chúa Trịnh cho phép tàu lên Kẻ Chợ,
hai cha rửa tội tất cả được 32 người. Đoàn truyền giáo được chúa
Trịnh tiếp đón nồng hậu khi chúa đang trên đường đi đánh chúa Nguyễn
Phúc Nguyên ở Đàng Trong. Sau khi chúa Trịnh thất trận trở về, phái
đoàn được chúa đưa về Thăng Long. Hai cha được hưởng nhiều ân huệ và
được cấp nhà ở trong phủ chúa; nhưng để tiện dịp tiếp xúc với dân
chúng, hai cha xin đến ở vùng Cầu Giền. Tại đây, hai cha bắt đầu mở
lớp dạy giáo lư, mỗi khóa 8 ngày, mỗi ngày 6 lớp. Chính từ những
buổi dạy này đă khởi thảo tập "Phép Giảng Tám Ngày" được cha Đắc Lộ
cho in ở Rôma bằng hai thứ tiếng La tinh và Việt Nam vào năm 1651.
Kết quả thật bất ngờ: chính em gái chúa Trịnh là bà Catarina và hàng
ngàn người được rửa tội. Tổ chức Thầy Giảng cũng được cha Đắc Lộ
thành lập. Công việc rao giảng Tin Mừng đang tiến triển, th́ chúa
Trịnh nghe lời xúi giục của phe chống đối (tham quan, hoạn quan, phi
tần, cung nữ...) trục xuất hai cha về Macao. Trong thời gian 3 năm,
tại Đàng Ngoài, hai cha đă rửa tội được 5,602 người.
Tiếp nối công việc của cha
Marques và Đắc Lộ, ngày 15-3-1631, các thừa sai ḍng Tên lần lượt có
mặt tại Kẻ Chợ và được chúa Trịnh tiếp đón nồng hậu cùng cho phép tự
do giảng đạo v́ chúa cần sự có mặt của các thừa sai để buôn bán với
người Bồ Đào Nha về nhiều mặt hàng, nhất là vũ khí, đạn dược. Từ năm
1631-1663, giáo đoàn Đàng Ngoài được nhiều giáo sĩ ḍng Tên đến giúp,
trong đó có các cha Gaspar d'Amaral (1631-1638), cha Felice Morelli
(1636-1647), cha Filippo Giovani de Marini (1647-1658), cha Onofrio
Borgès (1642-1663).
2.
Thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) (Nhà Trịnh, Nhà Nguyễn,
và Pháp thuộc)
Ngày 9-9-1959, Ṭa Thánh thành
lập hai giáo phận ở Việt Nam: Đàng Trong và Đàng Ngoài, bổ nhiệm Đức
Cha Francois Pallu làm đại diện Tông Ṭa Đàng Ngoài (1659-1679).
Suốt thời gian làm đại diện Tông Ṭa, Đức Cha Pallu nhiều lần muốn
tới Đàng Ngoài để nhận nhiệm sở, nhưng đều bị cản trở, nên ngài nhờ
Đức Cha P. Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt cha F. Deydier
Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Đến năm 1679, Ṭa
Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc).
Ngày 27-1-1684, Đức cha lên đường nhận nhiệm sở và 9 tháng sau ngài
qua đời tại đây.
Ngày 18-8-1666, cha Deydier có
mặt tại Thăng long để thực thi sứ mệnh truyền giáo. Năm 1669, Đức
cha Lambert de la Motte tới Phố Hiến. Đầu năm 1670 ngài truyền chức
"nhỏ" cho 48 thầy, chủ tŕ Công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập ḍng
Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và Bái Vàng.
Năm 1679, giáo phận Đàng Ngoài
được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài trao cho Hội Thừa Sai Paris, do
Đức cha Jacques de Bourges (1679-1714) coi sóc. Năm 1713, Đức cha
Bourges bị trục xuất. Ngài qua Thái Lan và mất ở đây năm 1714, thọ
83 tuổi.
Giáo phận Tây Đàng Ngoài năm
1753 gồm: Bố Chính 10,000 giáo dân, Nghệ An 42,500, Thanh Hóa
24,039, Tây Nam (Trấn Sơn Nam) 45,188, Miền Tây (Trấn Sơn Tây)
7,000, Kẻ Chợ 3,000 gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện
18 phường, làm thành "36 phố phường" tổng cộng 131,727 giáo dân.
Dưới triều Nguyễn
(1789-1883)
Đức cha J.B. Longer Gia (Giám
mục hiệu ṭa Gortyna) cai quản giáo phận Tây Đàng Ngoài từ năm
1790-1831. Năm 1802, khi vua Gia Long ra Thăng Long, ngài đă tới yết
kiến và nhắc tới mối liên hệ giữa Đức cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa
Lộc) và nhà vua. Nhà vua hứa cho tự do tôn giáo, nhưng thật ra không
được thi hành trong các địa phương. T́nh h́nh giáo phận năm 1830
được biết như sau: 2 giám mục, 6 thừa sai, 87 linh mục bản xứ,
174,000 giáo dân, 50 giáo xứ, 1 đại chủng viện, 20 đại chủng sinh, 2
tiểu chủng viện, 60 tiểu chủng sinh, 595 người lớn được rửa tội,
1,886 trẻ em được rửa tội. Đức cha Longer mất năm 1831.
Đức cha J.M. Havard Giu (giám
mục hiệu ṭa Castorie 1790-1838), trong đời ngài có cha Cornay chết
v́ đạo năm 1837, c̣n ngài th́ mất năm 1838.
Đức cha Pierre Borie Cao (giám
mục hiệu ṭa Acanthe) được bổ nhiệm giám mục năm 1838 và tử đạo ngay
năm đó. Chiếu chỉ cấm đạo ngày 18-1-1839 của vua Minh Mạng đă khiến
cho nhiều tín hữu ở Đàng Ngoài bị bách hại và nhiều người chết v́
đạo.
Đức cha P.A. Retord Liêu (giám
mục hiệu ṭa Acanthe 1840-1858). Đời ngài là một chuỗi những gian
truân, đi ẩn trốn liên tục. Sau khi vua Minh Mạng ngă ngựa băng hà
ngày 20-1-1841, Đức cha đă có thể truyền giáo công khai vào những
năm 1843-1847. Nhưng khi người Pháp bắn phá Cửa Hàn vào tháng
3-1847, vua Thiệu Trị nổi giận, đă ra sắc chỉ cấm đạo tháng 4-1847.
Nhưng sau đó nhà vua băng hà ngày 4-11-1847.
Ngày 27-3-1846, Đức Gregorius
XVI chia đôi giáo phận, một giữ tên giáo phận Tây, một mang tên mới
giáo phận Nam Đàng Ngoài (Vinh) gồm: Bố Chính và Nghệ An, Hà Tĩnh;
giáo phận Tây vẫn rộng lớn.
Dưới thời Tự Đức, Đức Cha C.H.
Jeantet Khiêm (1847-1866) cai quản giáo phận. Vua Tự Đức cấm đạo gắt
gao với 6 sắc chỉ từ 1848-1862 và chỉ cho phép giữ đạo sau ḥa ước
Nhâm Tuất (1862). Giáo phận đă trải qua cơn khủng bố khốc liệt của
những người theo phong trào Văn Thân với khẩu hiệu "B́nh Tây sát Tả"
cho tới năm 1888.
Đức cha J.S. Theurel Chiêu (giám
mục hiệu ṭa Acanthe 1858-1868). Theo bản tường tŕnh, lúc này trong
giáo phận có chừng 39 giáo xứ, 140,000 giáo dân.
Dưới thời bảo hộ Pháp
(1883-1945)
Đức cha P.F. Puginier Phước (giám
mục hiệu ṭa Mauricaastre 1868-1892) là người giao thời, ngài đă
được mời làm trung gian ḥa giải, nhưng sự việc không thành. Người
Pháp đă đặt nền đô hộ trên đất nước ta.
Năm 1895, Ṭa Thánh phân chia
giáo phận Tây thành hai giáo phận, một giữ tên cũ giáo phận Tây,
giáo phận mới lấy tên gọi là giáo phận Đoài (Hưng Hóa).
Năm 1901, Đức Lêô XIII lại
chia giáo phận Tây Đàng Ngoài thành 2 giáo phận. Giáo phận mới mang
tên giáo phận Thanh (sau là Phát Diệm). Ngày 3-12-1924, Ṭa Thánh
đổi tên các giáo phận tông ṭa ở Việt Nam theo địa hạt hành chính,
nơi đặt ṭa giám mục, v́ thế giáo phận Tây Đàng Ngoài được đổi thành
giáo phận Hà Nội.
Đức cha P.M. Gendreau Đông (giám
mục hiệu ṭa Chrysopolis) cai quản giáo phận từ 1887-1934. Không kể
việc điều tra và thiết lập các hồ sơ tử đạo, ngài đă làm nhiều việc
xă hội và thiết lập các tổ chức giáo dục và đào tạo giáo dân cũng
như giáo sĩ. Năm 1935, khai mạc Công đồng Đông Dương.
Thời kỳ Đức cha F. Chaize
Thịnh (giám mục hiệu ṭa Alabanda 1925-1949), Công đồng Đông Dương
1935 đă mở đường cho việc mở mang dân trí, phát triển các tổ chức
giáo dục và đào tạo cũng như việc xă hội từ thiện. Năm 1937, mở câu
lạc bộ nghiên cứu xă hội, cho phát triển ngành Công giáo Tiến hành.
Theo bản phúc tŕnh năm 1930, trong giáo phận có: 27 thừa sai, 143
linh mục Việt Nam phục vụ trong 88 giáo xứ, 400 thầy giảng, khoảng
400 nữ tu, trong đó có ḍng Mến Thánh Giá, ḍng Kín Carmel Hà Nội,
ḍng Sư Huynh La San với 700 học sinh, ḍng Đa Minh Pháp, ḍng Đức
Bà.
Năm 1948, giáo phận có khoảng
hai triệu dân, giáo dân khoảng 195,000 người, 30 thừa sai, 135 linh
mục, 95 tu sĩ, 491 nữ tu. Đại Chủng Viện Xuân Bích đóng cửa sau biến
cố ngày 19-12-1946, được mở lại vào năm 1948.
3. Thời kỳ
Hàng Giáo Phẩm Việt Nam
Tại Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh
Long đă có giám mục Việt Nam, nhưng giáo phận Hà Nội vẫn thuộc Hội
Thừa Sai.
Năm 1950, Đức cha Giuse Maria
Trịnh Như Khuê được bổ nhiệm làm giám mục Hà Nội, trong thời kỳ đất
nước trải qua nhiều biến cố lớn: sự kiện tuyên ngôn độc lập ngày
2-9-1954, cuộc di cư vào Nam năm 1956. Đức cha đă có Thư Chung nhắn
nhủ giáo dân và rao giảng t́nh yêu thương đồng bào.
Ngày 24-11-1960, Ṭa Thánh
quyết định thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, nâng giáo phận tông
ṭa lên hàng chính ṭa, giáo phận Hà Nội được nâng lên hàng tổng
giáo phận và đặt Đức cha Giuse Trịnh Như Khuê làm tổng giám mục.
Ngày 24-5-1976, ngài được phong làm Hồng Y tiên khởi của Việt Nam.
Ngày 2-6-1963, Ṭa Thánh bổ
nhiệm Đức cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn làm phó tổng giám giám mục
Hà Nội. Sau khi Đức Hồng Y Khuê qua đời, ngài trở thành Tổng giám
mục chính ṭa. Ngày 30-6-1979, Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Tổng
giám mục Giuse Trịnh Văn Căn làm Hồng Y, Đức cha F.X. Nguyễn Văn
Sang làm giám mục phụ tá. Ngày 16-11-1985, Đức Hồng Y kư thỉnh
nguyện xin tuyên thánh cho 117 chân phước tử đạo Việt Nam và được
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận.
Ngày 18-5-1990, Đức Hồng Y
Trịnh Văn Căn từ trần sau một cơ bạo bệnh. Ngày 23-4-1994, Đức Gioan
Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng làm tổng giám
mục Hà Nội và linh mục Phêrô Lê Đắc Trọng, tổng đại diện giáo phận
Hà Nội, làm giám mục phụ tá.
Ngày 26-11-1994, Ṭa Thánh
phong Hồng Y cho Đức tổng giám mục Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng tại
Rôma. Ngài được các giám mục bầu làm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam trong đại hội lần VI ở Hà Nội, từ ngày 25-9 đến 1-10-1995. Ngài
đă tích cực củng cố Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội và đời sống
đức tin của giáo dân.
Thứ Bảy ngày 26 tháng 4 năm
2003, ĐTC Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, làm
Giám Quản Tông Ṭa (Administrateur Apostolique Sede Plena) Tổng Giáo
Phận Hà Nội.
Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội, vào
lúc này (năm 2003) đă 84 tuổi, trước đây đă nhiều lần xin phép về
hưu (Theo giáo luật 75 tuổi là có thể xin phép về hưu), sau nhiều
lần Ṭa Thánh đă gửi phái đoàn qua Việt Nam thương thuyết với nhà
cầm quyền Hà Nội để có một vị Tổng Giám Mục kế vị Đức Hồng Y Tụng,
nhưng vẫn không có kết quả. Bởi vậy, V́ lư do sức khỏe với tuổi già
yếu của Đức Hồng Y, ngày 26/04/2003, Ṭa Thánh đă bổ nhiệm Đức Cha
Giuse Ngô Quang Kiệt làm Giám Quản Tông Ṭa
(Administrateur Apostolique
Sede Plena)
Tổng Giáo Phận Hà Nội.
Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đă bổ nhiệm Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt
làm tổng giám mục chính ṭa giáo phận Hà nội, thay thế Đức hồng y
Phạm Đ́nh Tụng, và chính thức chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Đức
Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng.
B. Địa Lư
và Dân Số Tổng Giáo Phận Hà Nội
Ranh giới: Tổng Giáo Phận Hà
Nội phần lớn nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội (trừ một số huyện
thuộc giáo phận Bắc Ninh) và và một phần trên địa bàn 4 tỉnh: Hà Tây
(trong 9 huyện, trừ một số huyện thuộc giáo phận Hưng Hóa); Hà Nam;
Nam Định (nửa thành phố Nam Định, huyện Mỹ Lộc, huyện Vụ Bản, huyện
Ư Yên thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội); Ḥa B́nh có 8 giáo xứ trong 4
huyện; Hải Hưng chỉ có một xứ thuộc huyện Kim Thi.
Tổng Giáo Phận Hà Nội có diện
tích khoảng 7,000 km2.
Sông, hồ, núi: Nội thành, phía
Bắc và Tây, có sông Tô Lịch bao bọc, giữa trung tâm thành phố có hồ
Hoàn Kiếm. Phía Nam có sông Kim Ngưu, các hồ Quỳnh Lôi, Đầm Sét, hồ
Bảy Mẫu, hồ Thiên Quang. Phía Đông là sông Hồng dài 1,165 km và sông
Luống (Đuống). Phía Bắc có sông Cà Lỗ, hồ Trúc Bạch, hồ Tây.
Hà Nội có 5 ngọn núi lớn: Núi
Vua Bà (Viện Nam), Tản Viên, Tam Đảo, Phao Sơn, Yên Tử.
Sắc tộc: phần lớn là người
Kinh, ngoài ra c̣n có người Mường, Dao, Sán D́u... khoảng 8,000
người.
Tổng giáo phận Hà Nội gồm: 1
giáo hạt Hà nội, 1 giáo hạt Hà Tây, 1 giáo hạt Hà Nam, 1 giáo hạt
Nam Định, địa bàn tỉnh Hải Dương và địa bàn tỉnh Ḥa B́nh.
(dựa theo Niêm Giám 2005
của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)
Nguồn :
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnchurch/vnchurch.htm
..................... Đọc thêm :
Vài nét về Lịch
Sử Tổng Giáo Phận Hà Nội - Ban Giáo Lư TGP Hà Nội
|
|