
Lược
sử Giáo xứ Phường Đúc
Nguồn : Website TGP Huế
(11/7/2020)
|
Giáo xứ Phường Đúc có
thể xem như chiếc nôi của Giáo đoàn Đàng Trong, từng chứng kiến biết
bao sự ra đời, đổi thay và thăng trầm của công cuộc truyền giáo.
Giáo xứ c̣n là cửa ngơ dẫn vào Giáo phận Huế tách rời khỏi Giáo phận
Quy Nhơn Đông Đàng Trong (27-8-1850). Nhờ là nơi phát sinh ḍng Mến
Thánh Giá Huế, ḍng Sư huynh Thánh Tâm, nơi thiết lập đại chủng viện
đầu tiên và ṭa giám mục thứ hai của Giáo phận Đàng Trong, nơi chào
đời vị thánh tử đạo đầu tiên và là nơi tuẫn giáo cách rùng rợn nhất
của một thừa sai Giáo phận Huế, giáo xứ Phường Đúc quả là bức tranh
thu nhỏ mà đầy đủ về cuộc sống đức tin phong phú và anh dũng của
Giáo phận. Nay “thuật lại lịch sử của ḿnh là một cách để chúc tụng
Thiên Chúa và tạ ơn v́ những ân huệ mà Người đă ban” (ĐTC Phanxicô).
|
|

Nhà thờ Phường Đúc
I- VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ Phường Đúc, giáo hạt Thành Phố, nằm trên địa bàn phường
Phường Đúc và phường Thủy Xuân (xưa gọi là làng Dương Xuân Thượng và
Dương Xuân Hạ), thành phố Huế, cách ṭa Giám mục Huế 3.5 km về phía
tây. Nhà thờ Phường Đúc ở số 321 đường Bùi Thị Xuân. Sát về phía tây
là đường Huyền Trân Công Chúa. Giáo dân đa phần sống tập trung hai
bên đường Bùi Thị Xuân chạy song song với ḍng sông Hương, sau lưng
là đồi dốc chập chùng.
Giáo xứ ban đầu được gọi là Thợ Đúc, đến năm 1850 Đức cha
François Pellerin đổi tên thành Trường An (do hai xóm Trường Đồng và
Vĩnh An). Thời cha sở Lu-y Nguyễn Văn Bính (1977), Đức Tổng
Philipphê Nguyễn Kim Điền lấy lại tên cũ nhưng sửa chút ít, gọi là
Phường Đúc.

II- NGUỒN GỐC H̀NH THÀNH VÀ QUÁ TR̀NH
PHÁT TRIỂN
1- Khai sinh nhờ người thợ đúc súng.
Giáo xứ Phường Đúc đă ra đời rất sớm, như một cộng đoàn nhỏ, và
gắn liền với tên tuổi của một nhân vật đặc biệt, ông Joăo da Cruz
(Jean de la Croix 1610-1682), người Bồ Đào Nha.
Theo linh mục Léopold Cadière, ông Joăo da Cruz giữ một vai tṛ
quan trọng đối với vương phủ nhà Nguyễn, thời chúa Hiền Nguyễn Phúc
Tần (1648-1687), đồng thời c̣n có một vị trí đặc biệt đối với giáo
đoàn Đàng Trong nói chung và giáo xứ Thợ Đúc nói riêng trong những
năm tháng đầu tiên khai sinh cộng đoàn này. Lúc đó đă có một số Kitô
hữu ở đây rồi. Cha Cadière viết:
“Những tài liệu đầu tiên chúng tôi có đă liên kết việc thiết lập
Kitô giáo tại vùng Thợ Đúc với người đúc súng cho triều đ́nh Annam
thế kỷ XVII, Jean de la Croix”. Rồi ngài trích dẫn “Hồi kư Lefèbvre”:
“Một người lai Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha, làm nghề đúc súng đại
bác, đến đề nghị với Vua (tức chúa Hiền) các việc phục vụ của ḿnh,
đă được chấp thuận và cho ở Thợ Đúc, nơi mà mọi thợ đúc quen đến
sinh sống. Người lai Công giáo này đă thuyết phục Vua rằng ông cần
một linh mục trong đạo của ông, mà những lời cầu nguyện sẽ giúp ông
thành công trong các công việc của ḿnh. Vua đă cho vời một Thừa sai
ḍng Tên đến, vị này ở một thời gian trong nhà một nữ Kitô hữu, đă
qua đời và được chôn trong vườn ông thợ đúc… Đây là linh mục (ḍng
Tên) duy nhất đă ở tại làng này cho đến lúc đó, không phải trong một
trú sở, nhưng trong một nhà người lạ”[1]
Theo linh mục Louis Chevreuil (MEP, 1627-1693), người được Đức
Giám mục Lambert de la Motte sai đến Huế từ Xiêm để gặp ông Jean de
la Croix, cho hay ông này có một nhà nguyện riêng và một cha tuyên
uư là Domenico Fuciti (ḍng Tên người Ư) trông coi nhà nguyện đó[2].
(Năm 1698, nhà nguyện này sẽ bị chúa Minh Nguyễn Phúc Chu
(1691-1725) cho phá hủy cùng với nhà thờ của cha Pierre Langlois ở
Phủ Cam). Cha Chevreuil c̣n cho biết tại hầm nhà nguyện của cha
Fuciti, có bốn hoặc năm xác kitô hữu tiên khởi bị giết chết v́ đức
tin cách đấy 30 năm, được cất giữ trong bốn hoặc năm quan tài gỗ.
Các xác nầy không thể xác định danh tánh. Cha Tanitlaô Nguyễn Văn
Ngọc cho đó là hài cốt của 5 vị tử đạo từ 1645-1656: thầy giảng
Inhaxiô (Quảng Trị), thầy giảng Vinhsơn (Quảng Ngăi), ông Âutinh (Quảng
B́nh), ông Alêxù (Q.B́nh) và ông Phêrô Văn Nết (Thuận Hóa)[3].
Căn cứ vào mô tả của ông Michel Đức Chaigneau (Souvenirs de Hué [Cochinchine]),
nhất là dựa vào Hồi kư (Mémoire) của Thừa sai Armand-François
Lefèbvre (MEP người Pháp), trên nền nhà thờ của ông Jean de la Croix
có hai ngôi mộ, một của cha Pietro Belmonte ḍng Tên người Ư, chết
rũ tù v́ đạo (27-5-1700) và một của ông Jean de la Croix, nhưng
không rơ ngôi nào là của vị nào. (Bốn ngôi mộ đất là vợ, con, cháu
và dâu của ông ấy).
Như vậy, nhà ông Jean de la Croix được coi như trụ sở ḍng Tên
đầu tiên ở Huế sau hai trụ sở ở Hội An và Đà Nẵng. Đó là gốc tích
giáo xứ Phường Đúc. Cộng đoàn tín hữu Thợ Đúc lúc ấy nằm dọc ấp Bồi
Thành (Vĩnh An) sát ḷ đúc của ông vốn ở dưới chân Thành Lồi[4], góc
đông bắc, gần sông Hương và gần Khe Tre.
2- Nơi dừng chân của nhiều mục tử
Cha Domenico Fuciti ở Thợ Đúc từ năm 1658 đến năm 1665 th́ chúa
Hiền truyền lệnh phải vào Hội An, rồi bị trục xuất sang Xiêm (Thái)[5].
Tháng 8 năm 1665, Đức cha Lambert de la Motte, Đại diện Tông ṭa
tiên khởi của Giáo phận Đàng Trong (1624-1658-1679), cử cha Antoine
Hainques (MEP, 1637-1670) đến Huế. Ngài cải trang làm người Nhật và
ở lại nhà ông Jean de la Croix tại Thợ Đúc khoảng một tháng và ban
các phép bí tích cho giáo dân.
Kế đến là cha Giuseppe Candone (ḍng Tên người Ư), đến VN năm
1670. Trong một lá thư gởi các bề trên chủng viện hội Thừa sai Paris
năm 1675, linh mục Guillaume Mahot (giám mục tương lai,
1630-1681-1684) có đề cập tới cha Giuseppe Candone, cho biết ngài
“đến kinh đô và ở lại trong nhà ông thợ đúc” (để làm tuyên úy),
nhưng không nói ở lại cho tới khi nào[6].
Kế tiếp là cha Bartolomeo Acosta (ḍng Tên, cha Bồ mẹ Nhật), tới
VN năm 1671. Về vị này, Henri Chappoulie, trong cuốn Rome et les
Missions d’Indochine au XVIIe siècle, cuốn I, trang 327, có viết:
“Mới từ Macao sang… ngài đă thận trọng cập bến Hội An mà không mang
theo áo lễ, chén thánh trong hành lư, v́ biết ḿnh sẽ t́m thấy những
ǵ cần thiết tại nhà ông Jean de la Croix, chốn quan pḥng thường
trực của các cha từ Macao đến”. Khi thừa sai Pierre Langlois đến Huế
năm 1680, đă gặp linh mục Bartolomeo ở đây và cho biết ngài làm
tuyên úy cho ông thợ đúc của chúa. Cha Bartolomeo c̣n có mặt tại Huế
cho đến 1693 theo thư của linh mục Noguette (10-2-1694)[7].
Năm 1675, Đức cha Lambert de la Motte kinh lược lần thứ hai xứ
Đàng Trong và ở lại nhà ông Thơ Mật tại Thợ Đúc trong 15 ngày (không
ở nhà ông Jean de la Croix là kẻ chẳng thích ǵ các thừa sai MEP).
Từng là cánh tay phải của các cha ḍng Tên[8] trong tư cách thầy
giảng, ông Thơ Mật đồng thời là quản gia được quí mến của ông hoàng
Nguyễn Phúc Diễn (1640-1684, con trưởng của chúa Hiền Nguyễn Phúc
Tần), nên ông đă đón Đức cha về nhà ở mà không sợ bị khuấy rầy cản
trở[9]. Có cha Bénigne Vachet (MEP) tháp tùng vị Giám mục.
Trong 15 hôm đó, nhà ông Thơ Mật mở cửa suốt ngày để bổn đạo xa
gần đến đọc kinh và chịu phép thêm sức. Các thầy giảng ba tỉnh Thuận
Hóa, Quảng Trị, Quảng B́nh đến hầu Đức cha, tŕnh bày công việc,
giăi bày khó khăn và nhận bằng cấp. Lúc này các cha ḍng Tên vắng
mặt. Đức cha và các thầy làm việc suốt ngày.
Tiếp đó, cộng đoàn Thợ Đúc lại đón một mục tử mới là cha Pietro
Belmonte (ḍng Tên, người Ư, ?-1700), tới Việt Nam năm 1692, đến ở
ngôi nhà nguyện của ông Jean de la Croix mà lúc này đă mất nên để
lại cho con là Clemente da Cruz (Clément de la Croix). Theo mô tả
của linh mục Jean-Baptiste de Capony (MEP người Pháp), cha Belmonte
có “vóc dạng cao lớn, tóc đen, mặt dài”[10].
3- Thử thách bắt đầu: tù đày và tử đạo
a- Mục tử bị tống giam, chết rũ tù
Trong thư đề ngày 7-1-1695 gởi cho người bạn là thừa sai Robert
Noguette (MEP), cha Pierre Langlois viết: “Từ cuộc tŕnh diễn nhân
lễ Giáng sinh do cha Pietro (Belmonte) tổ chức tại nhà thờ ông
Clément de la Croix (con trai ông Jean de la Croix), người ta đă
nhắc lại những tiếng đồn cũ về chuyện cấm Kitô giáo, khiến ai nấy lo
sợ. Càng lo sợ hơn v́ chúa đă phạt nặng những người tŕnh diễn, đổ
trách nhiệm lên họ, chặt ngón tay và cạo trọc đầu một số người đă bị
bắt”[11]
Đến lễ Phục sinh năm 1968, một đàng thấy tín hữu đến dự lễ đông
đảo tại nhà thờ cha P. Langlois ở Phủ Cam và nhà nguyện ông Clément
de la Croix ở Thợ Đúc, một đàng nghe theo lời sư săi vu cáo tín hữu
phá chùa đập tượng, Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1691-1725) đă
ra lệnh cho ông Tả Khang đem lính tới phá nhà thờ Phủ Cam và ông Hữu
Cam[12] dẫn quân tới phá nhà nguyện Thợ Đúc xây từ năm 1658.
Đến ngày 13-3-1700, Minh vương lại ra lệnh cấm đạo. Nhiều linh
mục và giáo dân bị bắt, bị cầm tù và mang gông xiềng. Ở kinh đô có 5
thừa sai lâm nạn: 3 vị ḍng Tên là các cha Pietro Belmonte, Giuseppe
Candone (Ư 1637-1701), Antonio Arnédo (TBN, 1660-1715) và 2 vị hội
Thừa sai là cha Pierre Langlois và Jean-Baptiste de Cappony
(1652-1707)[13]. Tất cả bị mang gông và tống vào nhà ngục Phú Xuân.
Cha P. Belmonte bị tra tấn v́ đạo trong gần ba tháng. Ngoài ra
ngài c̣n phải mang gông xiềng nặng. Bị giam pḥng bên cạnh, cha de
Cappony nhận xét về ngài như sau: “Không thấy ngài nổi giận bao giờ.
Khuôn mặt ngài luôn tươi cười, lời nói ngài dịu dàng, dễ chịu, rất
đạo đức… Ngài bị đau ruột, phải nằm dưới sàn đất 7-8 ngày… Một lúc
trước khi tắt thở, ngài xin lỗi chúng tôi, khiến tôi phải chảy nước
mắt. Ngài lănh đủ các bí tích với ḷng sốt sắng cao độ, và tự ḿnh
đáp lại lời khuyên phó linh hồn”[14] Hôm đó là ngày 27-5-1700. Cha
Juan Antonio Arnedo, giáo sư dạy toán cho chúa, được tha trước, đă
nhận xác cha Belmonte và đem về an táng.
Thừa sai P. Belmonte là vị linh mục đầu tiên và thuộc ḍng Tên hy
sinh v́ đạo cho giáo đoàn Đàng Trong tại cộng đoàn Thợ Đúc.
Vẫn vào thời gian cấm đạo trên (1700), chúa Minh cho tịch thu hài
cốt tử đạo đang cất giữ ở hầm nhà nguyện của ông Jean de la Croix (nói
trên) mà đem rải trên đường làng Dương Xuân Hạ, với vu cớ là người
có đạo đào mả lấy cốt để làm bùa mê.
Cũng trong cuộc bắt bớ năm 1700, thừa sai Pierre de Sennemand (MEP
1660-1730, đến Viễn Đông năm 1693), lúc đó đang ở Hội An cũng bị cầm
tù (Adrien Launay, Sđd, t.I, tr. 441) và bị đưa ra Thuận Hóa, đến
cuối năm 1703 mới được thả.
Có lẽ v́ trong thời gian này, ḥa thượng Thích Đại Sán được chúa
Minh mời từ Trung Quốc sang Thuận Hóa thuyết giáo (1695). Theo thừa
sai de Sennemand, vị Hoa Thoan (ḥa thượng) được chúa kính trọng này
đă dâng thỉnh nguyện thư xin tha tù cho các giáo sĩ.[15]
Lúc ra khỏi nhà giam, cha de Sennemand định lên ở khu đất của cố
linh mục P. Langlois (chết rũ tù) tại Xóm Đá – Phủ Cam. Nhưng rồi
cha bỏ ư định đó v́ lời ra tiếng vào của hai cha de Cappony và
Arnédo mà lên ở Thợ Đúc mua đất lập nhà thờ ở vùng gần núi tên là
Khe Tre, để quan lại ít ḍm ngó. Theo cha Charles Labbé, đó là vùng
đất cách phủ chúa một dặm[16]. Vậy có thể từ rất sớm, vào năm 1704,
Khe Tre (thôn Thượng Bốn) của làng Dương Xuân Thượng (nay thuộc
phường Thủy Xuân) là địa bàn thứ hai của cộng đoàn Thợ Đúc. Được
biết lúc lên ở đấy, cha de Sennemand từng đi thăm những tín hữu bị
bỏ tù trong cuộc bách hại năm 1714, ban các phép bí tích cho họ[17].
Ngài cũng có lập ḍng Mến Thánh Giá vào năm 1719.[18] Nay c̣n có
giếng bà Ngọ, bề trên tiên khởi của cộng đoàn chị em (xem bản đồ lẫn
h́nh chụp) và một số phần mộ như là dấu tích và bằng chứng về việc
họ Thợ Đúc di dời từ Bồi Thành Vĩnh An (thôn Dương Xuân Hạ) vào sâu
vùng Khe Tre để dễ bề giữ đạo. Lúc cha de Sennemand qua đời tại Phủ
Cam (1730), xác ngài được đưa về họ Thợ Đúc và an táng tại tu viện
Mến Thánh Giá, cha Charles de Flory chủ lễ. Các nữ tu lúc này c̣n
lập một bệnh xá lớn, tồn tại cho tới năm 1733.
b- Giáo dân mang án thảo tượng
Năm 1714, chúa Minh ra sắc dụ cấm đạo. Trong thư gởi các bề trên
chủng viện của hội Thừa sai Paris (27-10-1715), Đức cha Charles
Labbé cho biết vào tháng 3-1714, có tin đồn cấm đạo, khiến giáo dân
phải ngụy trang nhà thờ như nhà ở, phải thu giấu ảnh tượng và cất kỹ
bàn thờ gia đ́nh. Các phụ nữ không c̣n mang xâu chuỗi ở cổ khi ra
đường, nhiều người phải lánh vào rừng hoặc tạm thời trú ngụ nơi bạn
bè lương dân. Có kẻ trốn xung quanh nhà, hết ở bụi bờ này đến bụi bờ
khác[19].
Rất nhiều Kitô hữu Thuận Hóa và Dinh Cát bị giam tù ở kinh đô.
Theo thư nói trên của Đức Giám mục Charles Labbé, ngày nọ chúa
truyền đưa 26 người (21 nam, 5 nữ) đến phủ để bị thẩm vấn. Khi chúa
hỏi v́ sao họ lại phản loạn, không chấp hành lệnh cấm đạo của triều
đ́nh, họ khẳng khái trả lời tuyệt đối vâng lời và trung thành phục
vụ chúa ngoại trừ lệnh buộc bỏ đức tin. Nghe thế chúa tức giận, hạ
lệnh chém đầu tất cả. May có một vị đại thần can gián. Ông này tâu
với chúa rằng họ cũng là thần dân của chúa, sống đơn sơ, không gian
dối, chẳng làm ác cho ai, nộp thuế đầy đủ và hoàn tất các nghĩa vụ
theo luật định. Nếu đem họ ra giết, sẽ gây hoang mang trong nước và
quốc gia sẽ bị thất thu về thuế v́ người có đạo sẽ sợ mà bỏ trốn.
Nên phạt họ như cha phạt con, chứ đừng giết họ như kẻ thù. Lấy làm
phải, chúa nguôi giận và đổi án trảm quyết bằng án thảo tượng (đi
bứt cỏ nuôi voi nhà chúa suốt đời, phải mang xiềng ở cổ và chân,
trán bị khắc h́nh thánh giá bằng mũi kiếm như dấu ô nhục). Riêng 5
phụ nữ th́ được tha về[20].
Hiện tại ở giáo xứ Phường Đúc, thôn Thượng Bốn, có ngôi mộ tập
thể gọi là mộ 12 Ông Cỏ, bị án thảo tượng từ những năm 1714-1715. Mộ
các ngài đă được cha sở Phêrô Trần Văn Quư tôn tạo lại năm 1999 theo
lệnh của Đức Tổng Giám mục Têphanô Nguyễn Như Thể.

c- Câu họ can trường
Tại phủ chúa lúc ấy, c̣n có cuộc kiểm tra lính thị vệ, để biết
người nào theo đạo. Cũng theo Đức cha Labbé, trong số những quân
nhân sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin, có On Pho (ông
Cai Phó), người lớn tuổi nhất và được chúa tin dùng v́ luôn hoàn
thành nhiệm vụ. Muốn lưu dụng ông nên chúa cho gọi và kín đáo đề
nghị ông bỏ đạo. Chúa nói: “Này Cai Phó, tại sao ngươi muốn làm phật
ư ta ? Hăy thóa mạ Giêsu-Kitô, nhỏ thôi cũng được, và ta sẽ tha cho
ngươi”. Nhưng người tín hữu quả cảm này đáp lại: “Tâu Chúa thượng,
tại sao ngài lại muốn tôi làm điều ngài truyền bảo ? Chúa biết tôi
chỉ là bầy tôi hèn mọn; nhưng nếu các quan triều đ́nh cùng nhau cho
tôi tất cả vàng trên thế gian hoặc dọa giết chết tôi cách dă man
nhất để buộc tôi thóa mạ Chúa thượng, tôi sẽ không bao giờ làm, v́
ngài là chúa của tôi và tôi phải phục vụ lẫn tôn vinh ngài đến độ
mất mạng sống hơn là lỗi bổn phận nầy. Nếu sự kính trọng của tôi đối
với Chúa thượng tới mức như vậy, như ḷng tôi làm chứng cho tôi… th́
làm sao bây giờ tôi có thể thóa mạ Đức Giêsu Kitô mà tôi biết là
Chúa trời đất, Chủ tể vũ trụ, Đấng tạo dựng và ǵn giữ mọi vật, Vị
tối cao nắm quyền sinh tử mọi người; và trước ngai ṭa Người tất cả
chúng ta khi ra khỏi cuộc sống này sẽ phải đến tŕnh diện để nhận
hoặc phần thưởng hoặc án phạt cho mọi hành động của chúng ta. Chúa
thượng có thể làm ǵ cho tôi tùy ư ngài, nhưng tôi khiêm tốn van xin
ngài đừng xem việc tôi thành thực thưa với ngài rằng tôi không dám
thóa mạ Đức Giêsu là điều xấu xa”.
Câu trả lời khẳng khái của quan Cai Phó đă khiến chúa thất vọng
và cảm thấy bị xúc phạm, bèn truyền tịch thu lập tức tài sản lẫn
triệt hạ hoàn toàn nhà cửa ông[21]. Nhưng bà vợ ông đă tiên liệu mà
thu giấu của cải gia đ́nh.
Theo Linh mục Tanítlaô Nguyễn Văn Ngọc, ông Cai Phó trên là người
Thợ Đúc, làm tín hữu từ lâu. Do không chịu bỏ đạo, ông bị thích h́nh
Thánh giá trên trán, mang xiềng và đi bứt cỏ cho voi. Năm 1715, ông
Cai Phó được tha về. Với tiền của nhờ bà vợ khéo thu giấu, ông mua
một sở vườn gần chân Thành Lồi, xây cất một bệnh xá và một nhà
nguyện để cùng với giáo dân họp nhau đọc kinh hôm sớm. Ông trở thành
câu họ. Cha Pierre Heutte được Đức Giám mục Franciso Pérez đặt coi
giáo đoàn Huế (1715-1719), từng đến nhà nguyện này dâng lễ và giảng
dạy. Nhà nguyện này, theo cha Charles de Flory, đă bị đốt vào cuối
đời chúa Minh[22]
4- Tạm yên: đại chủng viện thứ nhất và ṭa
giám mục thứ hai được thiết lập.
Năm 1725, chúa Minh qua đời, chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú
(1725-1738) lên ngôi. Lúc ấy, ở Thợ Đúc có cha de Flory từ Phủ Cam
lên cư trú từ tháng 9-1731. Ngài đă xây một nhà thờ khác, không phải
chỗ nhà nguyện cũ vốn bị phá hủy từ năm 1725 rồi. Cha đă qua đời tại
giáo xứ Phủ Cam 3-1-1733 và ngày 24-3-1741 được cải táng về Thợ
Đúc[23].
Thời chúa Ninh, đạo được dễ dàng, nhưng xảy ra bất đồng giữa các
ḍng tu về nghi lễ Á đông và địa giới truyền giáo.
Đức Giáo hoàng Clêmentê XII khi ấy đă cử Đức Giám mục Elzéar-François
des Achards de la Baume (1679-1730-1741) làm Khâm sai để thu xếp mọi
chuyện. Đến xứ Đàng Trong rồi ra Thuận Hóa ngày 7-6-1739, giải quyết
xong một số vấn đề và đi kinh lư một số họ đạo (ra tới tận Quảng
B́nh), Đức Khâm sai đă quyết định thành lập chủng viện tại Thợ Đúc
để đào tạo linh mục bản xứ. Đó là lư do ra đời đại chủng viện Carôlô
dưới chân Thành Lồi ngày 30-09-1740. Cha Jean-Antoine de la Court (MEP,
1706-1746) làm bề trên tiên khởi. Khóa đầu khai mạc với 24 chủng
sinh. Đại chủng viện này tồn tại được 10 năm th́ giải tán v́ t́nh
h́nh khó khăn (1741-1750) dưới thời Đức cha Armand Lefèbvre và thời
chúa Vơ (Vũ) Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)[24].
Cha de la Court lúc đó cũng cai quản giáo đoàn kinh đô. Năm 1742,
ngài cho biết số tín hữu tại 2 họ đạo lớn nhất như sau: Thợ Đúc 800
và Phủ Cam 3000. Vào năm 1744, cả vùng kinh đô có khoảng 6000 giáo
hữu. [25]
Phần Đức Khâm sai th́ chẳng may qua đời ngày 2-4-1741 tại ṭa
giám mục ở Phủ Cam nhưng sau đó được chuyển lên an táng tại Thợ Đúc
trong một nghĩa trang nhỏ ở chân cạnh bắc Thành Lồi. Năm 1982, do
nghĩa trang này -nằm phía đông đường Huyền Trân Công Chúa- bị quy
hoạch thành cơ sở của một công ty, cha xứ Lu-y Nguyễn Văn Bính bèn
dời mộ của Đức cha cũng như của cha Phanxicô Xavie Trương Văn Thường
(1806-1849-1892) và cha Inhaxiô Phan Văn Huân (1827-1861-1877) về
trong nhà thờ Thợ Đúc hiện thời.

Trước đó, khi Đức Khâm sai Ṭa thánh đến Huế th́ vị Đại diện Tông
ṭa Đàng Trong là Giám mục Alessandro di Alessandria (ḍng Bácnabit
người Ư, 1691-1725-1738) vừa mới qua đời. Đức Khâm sai đă chọn cha
Armand François Lefèbvre (MEP) đang ở Thái Lan làm Giám mục
(1709-1743-1760), đệ tŕnh với Ṭa thánh và được chuẩn y. Sau khi
được phong chức, Đức cha Lefèbvre về Huế, sửa lại nhà thờ giáo xứ
Thợ Đúc gần cạnh đông Thành Lồi sắp sụp đổ và chọn làm ṭa Giám mục.
Tháng 9-1745, Ṭa thánh chọn cha Edmond Bennetat (MEP) làm Giám mục
phó và được Đức cha chính Lefèbvre truyền chức ngày 1-5-1748 tại nhà
thờ Thợ Đúc.
5- Lại trải qua bắt bớ
a- Hai Giám mục và các Thừa sai bị trục xuất
T́nh h́nh đạo khó khăn trở lại là do năm 1749, có tay Pierre
Poivre đại diện Công ty Đông Ấn của Pháp đến Đàng Trong xin buôn bán,
nhưng việc không thành. Pierre Poivre đă cho tàu nhổ neo mà không
đợi giấy phép của chúa (lúc ấy là Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát
1738-1765), ông cũng chẳng trả tiền phiên dịch cho Micae Cường mà
c̣n bắt cóc người này theo. Vụ việc khiến chúa tức giận, anh ông
Cường th́ đưa đơn kiện.
Sẵn mối bất b́nh với các thừa sai, quan Cai An Tín cho lính đến
ṭa Giám mục bắt Đức cha Lefèbvre và các cha Rivoal, Lidur, Mathias,
Maccioni và Antoine về giam. Đồng thời triệt hạ các nhà thờ và tịch
thu tài sản các cha Graff, Neughbauer. Cha Moureiro th́ bị bắt trói
và mang gông. Sau cùng Đức cha Lefèbvre và các thừa sai bị đưa vào
Hội An (27-8-1750) để về Macao.[26]
Vụ việc Pierre Poivre gây tổn thất lớn cho giáo đoàn Đàng Trong
và ảnh hưởng nặng nề đối với giáo xứ Thợ Đúc. Trước sẵn có linh mục
bao nhiêu th́ bây giờ lại vắng vẻ bấy nhiêu. Vụ việc chỉ được xem
lắng dịu khi Đức cha Bennetat dàn xếp đưa Micae Cường về nước
(5-1752), chuộc lại nhà thờ Thợ Đúc (duy nhất c̣n sót) mà Đức cha
Lefèbvre đă bán lúc bị trục xuất. Nhà thờ này sau đó bị triều đ́nh
phá hủy. Đến năm 1781, nó được xây lại và được cha Pierre Halbout
(1758-1788) làm phép vào tháng 7.[27]
b- Linh mục tử đạo tiên khởi.
Trong thời gian đầu cuộc chiến giữa ba họ Trịnh, Nguyễn và Tây
Sơn (1774-1786), đạo được tạm yên. Nhưng gian đoạn này kéo dài không
lâu. Năm 1798, vua Cảnh Thịnh (Tây Sơn) ra lịnh cấm đạo. Theo linh
mục Pierre Gire (MEP), vua quan Tây Sơn nghi ngờ các thừa sai ở Huế
ủng hộ Nguyễn Ánh ở Đồng Nai nên cho lính đi lùng bắt Đức cha Jean
Labartette, Giám quản Tông ṭa Giáo phận bấy giờ
(1744-1784-1828)[28].
Ngày 07-08-1798, bốn cơ binh bất thần bao vây 4 giáo xứ lớn vùng
kinh đô, trong đó có Phủ Cam và Thợ Đúc. Cha Emmanuen Nguyễn Văn
Triệu (sinh tại Thợ Đúc, 1756-1798) lúc đó v́ thương nhớ mẹ ở Thợ
Đúc nên đă từ giáo phận Đông Đàng Ngoài vào thăm bà. Không t́m thấy
Đức Giám mục, quan quân bắt một số nữ tu MTG và giáo dân trong đó có
lẫn cha Triệu để tra hỏi. Không muốn để mặc họ bị lính lấy khẩu cung
đánh đập, cha Triệu tự nguyện cung khai danh tính và thân phận ḿnh.
Ngài bị xử trảm tại chợ Được gần cầu Gia Hội, đầu đường Chi Lăng
hiện nay ngày 17-9-1798. Đây là vị tử đạo tiên khởi được phong thánh
của Giáo phận Huế.
Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), Đức cha Labartette ra lệnh cải
táng cha thánh Triệu về chôn tại Dương Sơn (1803). Năm 1996, hài cốt
thánh nhân được rước về kính tại nhà thờ Phường Đúc.
Cũng năm 1798, 32 chức việc ở kinh đô trong đó có họ đạo Thợ Đúc
bị bắt giam trong ngôi nhà có hai cửa sinh môn và tử môn. Ba mươi
người bước ra tử môn bị lính cầm gươm chém chết tại chỗ[29].
c- Quan thị vệ bị án trảm quyết và Thừa sai Pháp bị án lăng tŕ
18 năm triều Gia Long (1802-1820) và 5 năm đầu triều Minh Mạng,
Giáo hội Việt Nam nói chung và Giáo phận Đàng Trong nói riêng được
yên hàn.
Ngày 02-10-1808, cha Jean Doussain được tấn phong giám mục phó (phụ
giúp Đức cha Jean Labartette) tại nhà thờ Thợ Đúc.
Cũng tại nhà thờ Thợ Đúc, ngày 29-3-1818, cha Jean Joseph Audemar
được tấn phong giám mục phó, giúp Đức cha Jean Labartette điều hành
giáo phận.
Nhưng từ năm 1825, Giáo hội VN lại gặp phải sóng gió. Họ đạo Thợ
Đúc lại được diễm phúc thấm máu đào tử đạo.
Khoảng cuối tháng 12-1832, khi chuẩn bị ra chiếu chỉ cấm đạo toàn
quốc, vua Minh Mạng đ̣i kê khai những người Công giáo trong hàng ngũ
thị vệ. Thế là ông Phaolô Tống Viết Bường bị gọi tŕnh diện rồi bị
xiềng xích tra tấn để buộc bỏ đạo.
Thấy không thể lay chuyển đức tin của người môn đệ Chúa Kitô,
quan Thượng thư bộ H́nh xin nhà vua tuyên án. Vua châu phê bản án
trảm quyết, treo đầu ba ngày để làm gương cho thiên hạ. Thế là ngày
23-10-1833, lúc năm giờ chiều quân lính dẫn ông ra pháp trường ở Thợ
Đúc. Lấy cớ bị trói và mang gông nặng, ông thị vệ kéo dài thời gian
di chuyển, để được chém trên nền nhà thờ mà Minh Mạng mới ra lệnh
đốt tại Khe Tre, gần nhà con gái và con rể. Thủ cấp ông bị bêu ba
ngày ở sân nhà thờ Thợ Đúc, c̣n thi hài vị tử đạo được an táng ở
giáo xứ Phủ Cam. Sau đó vua truyền xây dựng đ́nh làng Dương Xuân
Thượng trên nền nhà thờ bị triệt hạ này.

Đài kỷ niệm thánh Phaolô Tống Viết Bường
Nối tiếp con đường hy sinh của cha vợ, con rể của ông là Lê Hữu
Quờn, bị bắt vào tháng 9 trước đó, đă phải giam tại Khám Đường (góc
phía tây của Thành Nội) cho đến tháng 11-1833 và sau đó bị đày đi
Lao Bảo (11-12-1833). Thợ Đúc c̣n rạng ngời với tên tuổi ông Micae
Lê Văn Cửu. Theo cha Jaccard, bị bắt ép làm những điều mê tín, ông
Cửu từ chối và phải chịu cực khổ nhiều v́ đức tin (1831). Ông vốn
làm thông ngôn của vua Minh Mạng, biết tiếng Bồ và Pháp, thường theo
tàu qua Singapore và Batavia. Được biết ông Cửu là thân phụ ông Quờn,
thông gia với thánh Bường. Thấy con và thông gia bị bắt v́ đạo, ông
thường công khai bênh vực và ước ao được bắt để xưng đức tin (1832)
nhưng vua không bắt.
Hai năm sau cuộc tuẫn giáo của thánh Tống Viết Bường, lại đến cái
chết bi hùng của thừa sai Marchand Du. Với gần ba tháng trong chiếc
cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy
nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra
làm bốn phần tại pháp trường ở Thợ Đúc (cùng với 4 tử tù khác can
tội phản loạn) ngày 30-11-1835. Thủ cấp của ngài sau đó bị đem đi
bêu nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bỏ vào cối giă nát và rắc
xuống biển. Chẳng ai giữ được một cái ǵ của ngài làm thánh tích.
Nhưng máu tử đạo ngài đă thấm đẫm vùng đất đầy dấu vết vinh quang
này.

Đài kỷ niệm thánh Marchand Du
d- Những giáo dân nạn nhân Phân sáp.
Đời vua Tự Đức, vào năm 1860-1861, có sắc dụ Phân sáp, nhằm phân
rẽ các gia đ́nh Công giáo, sáp nhập các giáo dân bất kể nam nữ, trẻ
già theo kiểu lưu đày vào những làng ngoại hay đến những trại tù để
bị giam giữ, thích chữ vào má Tả đạo. Sắc dụ này đă gây ra tang
thương tàn khốc dă man chưa từng thấy: 115 linh mục tuẫn giáo; 2.000
nữ tu trong 80 tu viện bị phân tán, trong đó hơn 100 tử đạo; trên
10.000 chức việc bị bắt; hơn 2.000 họ đạo bị hủy diệt; trên 300.000
giáo dân bị phân tán trong các làng bên lương, trong đó, khoảng
40.000 bị thiệt mạng.
Thừa sai Théodore-Prosper Bernard (cố Thới 1834-1859-1868) đă
viết một tập sách tiếng Pháp nhan đề (dịch ra tiếng Việt) là “Những
người tuyên xưng đức tin từ 1848 đến 1862 của Bắc Đàng Trong” đăng
trên Annales của hội Thừa sai Paris. Về cộng đoàn Thợ Đúc, tác giả
đă nêu ra danh tính và trường hợp tử đạo (chết rũ tù) của 19 vị[30],
từ em bé 3 tuổi đến bà góa 65 tuổi, từ một kẻ mồ côi đến một người
cha gia đ́nh… Các vị bị giam ở nhiều nơi, như Cầu Hai, Vân Dương,
Huỳnh An, Bảo Vang, Phú Xuân, Triều Sơn Tây, Xuân Ḥa, Nam Phổ, Sư
Lỗ, An Cựu…
6- Thành giáo xứ với các quản xứ
Kể từ thời Đức Giám mục Hyacinthe Sohier B́nh chỉnh đốn lại giáo
phận (1866) sau khi khi vua Tự Đức tha đạo vào năm 1862, th́ các họ
đạo mới có những quản xứ đến ở thường xuyên để coi sóc (Trước đó,
chỉ có những mục tử lưu động, một đàng v́ con số ít ỏi, một đàng v́
thời buổi cấm cách, một đàng v́ ranh giới xứ đạo chưa rơ rệt). Thợ
Đúc cũng chỉ trở thành giáo xứ với quản xứ riêng biệt hay kiêm nhiệm
từ 1866
1- Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên (Phủ Việt) 1866-1872, quản xứ Phủ
Cam kiêm nhiệm.
2- Phêrô Trần Văn Sáng (gốc An Ninh) 1872-1880, phó xứ Kim Long kiêm
nhiệm.
3- Inhaxiô Nguyễn Ngọc Tuyên (Phủ Việt) 1880-1883, kiêm nhiệm Phủ
Cam.
4- P.X Trương Văn Thường (Ngọc Hồ) 1883-1892 (qua đời và an táng tại
Thợ Đúc)
5- Têphanô Lê Văn Ấn (Thợ Đúc) 1892-1895 (cháu ngoại thánh Tống Viết
Bường)
6- François Patinier (cố Kính) 1895-1922 (qua đời tại Thợ Đúc)
Giáo xứ Thợ Đúc lưu tại Khe Tre lâu, từ 1703 đến 1906. Năm 1906
linh mục Patinier (cố Kính) cho dựng nhà thờ kiểu Việt Nam tại
khuôn viên nhà thờ hiện tại. Năm 1913-1914, cố Kính đi Pháp, cha
Tađêô Đỗ Văn Cử (Bích Khê) tạm thế.
7- Tôma Trương Đ́nh Điểm (Nam Tây) 1923-1024
Vào năm 1924, tại giáo xứ Trường An (tên mới của Thợ Đúc), cha
Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn (1876-1902-1948, giám mục tương lai) đă thành
lập ḍng Sư huynh Thánh Tâm và làm bề trên tiên khởi.
8- Phaolô Huỳnh Văn Thế (Di Loan) 1925-1936. Cha Đôm. Nguyễn
Thanh Chước ở phó.
9- Đôminicô Lê Hữu Luyến (Di Loan) 1936-1945
10- Phaolô Trần Văn Khánh (Dương Sơn) 1946-1949
11- Phêrô Đỗ Khắc Tuế (Trường An) 1949-1962
12- Mattêô Lê Văn Thành (Trí Bưu) 1962
13- Anrê Nguyễn Văn Từ (Đại Lộc) 1963-1967
14- Đôminicô Lê Hữu Luyến (Di Loan) 1967-1974 (kỳ 2)
Từ 1969-1972, ban Truyền giáo Giáo phận, cha Giuse Lê Hữu Huệ phụ
trách, đặt tại Trường An.
15- Micae Ng. Văn Tường (Hương Lâm) 1974-1975
16- Giacôbê Ng. Văn Ngọc (Buồng Tằm) 1975-1977
17- Lu-y Nguyễn Văn Bính (Phủ Cam) 1977-1995. Trùng tu nhà thờ,
cải táng 3 mộ của Đức Khâm sai de la Baume, cha Phanxicô Xavie
Trương Văn Thường và cha Inhaxiô Phan Văn Huân từ nghĩa trang cạnh
Thành Lồi về trong nhà thờ.
18- Phêrô Trần Văn Quí (Tây Linh) 1995-2012:
– Xây dựng pḥng hội (1996), đài Đức Mẹ (1997), tu sửa cung thánh,
lợp lại nhà thờ (1998)
– Xây lăng tử đạo 12 Ông Cỏ (1999), đúc bêtông sân nhà thờ, nhà xứ
và sân đài Mẹ (2000), đường đến nơi tử đạo của hai thánh Marchand Du,
Phaolô Tống Viết Bường và lăng mộ 12 Ông Cỏ.
– Dựng tượng đài Chúa Giêsu trước nhà thờ (2005), thay áo quan mới
và làm bài vị mới cho Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu (2000).
– Nhận lại trường cho Giáo xứ làm pḥng học giáo lư. Xây dựng nhà
An nghỉ Tiền nhân (2008).
19- Gioan Bosco Dương Quang Niệm 2012-2018
Sửa dăy nhà trường học giáo lư.
20- Đôminicô Lê Đ́nh Du 10/2018-4/2019
Sửa sang nhà xứ
21- Phaolô Trần Thắng Thế 05/2019…. Bài sai kư ngày 10.5.2019
III- HOA TRÁI ĐỨC TIN:
A- Linh mục:
1- Emmanuel Nguyễn Văn Triệu (1756-1792-1798)
2- Phêrô Đỗ Khắc Nhơn (1821-1855-1874) bác của cha Đỗ Khắc Quyến
3- Inhaxio Phan Văn Huấn (Hổ) (1827-1861-1877) bác của cha Phan Văn
Bá
4- Têphanô Lê Văn Ấn (1829-1867-1897)
5- Anrê Nguyễn Văn Định (1838-1868-1894)
6- Giuse Bùi Thông Bửu (1839-1875-1885)
7- Grêgôriô Đô Khắc Quyến (1850-1888-1899)
8- Phêrô Phan Văn Bá (1857-1891-1910)
9- Phêrô Nguyễn Văn Chức (1865-1897-1914)
10- Phêrô Đỗ Khắc Tuế (1879-1905-1965)
11- Phêrô Tống Văn Hộ (1884-1915-1968)
12- Phaolô Phan Đ́nh Bố (1897-1926-1969)
13- Anrê Nguyễn Văn Cần (1904-1934-1993)
14- Phêrô Phan Phát Huờn (Huồn) (1926-1953-2015) ḍng Chúa Cứu Thế
15- Matthêô Nguyễn Văn Nghi (1928-1955-1967) anh ruột cha Nguyễn Quư
Trọng
16- Phaolô Lê Quang Trinh (1929-1957-1972) ḍng Chúa Cứu Thế
17- Têphanô Nguyễn Quư Trọng (1931-1955-1957)
18- Giuse Phan Thiện Ân (1933-1958-2018) ḍng Chúa Cứu Thế
B- Tu sĩ nam nữ
1- Maria Trần Thị Hương, sn: 1936, vk: 1982, ḍng Mến Thánh Giá.
2- Anna Đỗ Thị Diệu Vinh, sn: 1950, vk: 1989, ḍng Mến Thánh Giá.
3- Maria Trần Thị Bích Kiều, sn: 1988, tk: 2015, ḍng Mến Thánh Giá.
C- Giáo dân
Năm 1939: 640 người.
Năm 2010: 324 người
Năm 2015: 302 người
Năm 2020: 261 người
———————————————————————-
[1] Bulletin des Amis du Vieux Hué 1924. No 4, tr. 307-308.
[2] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine.
Documents historiques I. Paris, Téqui, 1923. Tr. 16
[3] St. Nguyễn Văn Ngọc, Lịch sử Giáo xứ Phường Đúc, bản viết tay,
tr.12
[4] Thành Lồi là một thành cổ bằng đất và gạch của người Chămpa,
được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 7, tọa lạc trên đồi Long Thọ,
thuộc địa phận 3 phường Thủy Biều, Thủy Xuân và Phường Đúc của TP
Huế. Thành h́nh vuông, chu vi dài 2 km với cấu trúc khép kín 4 mặt.
Hệ thống các lũy thành nằm theo hướng Tây-Nam-Đông-Bắc do người
Chămpa xây dựng với mục đích tạo nên một công tŕnh pḥng thủ vững
chắc. Sách Đại nam Nhất thống chí ghi: “Ở xă Nguyệt Biều, huyện
Hương Thủy, thể truyền đây là chỗ ở của vua Chiêm Thành gọi là thành
Phật Thệ. Thành cũ nay vẫn tục gọi là Thành Lồi“. https://vnexpress.net/thoi-su/thanh-loi-hon-1-000-tuoi-tro-thanh-di-tich-cap-quoc-gia-3293817.html.
Theo khảo sát gần đây, Thành Lồi nằm giữa Khe Tre (cạnh đông) và Khe
Long Thọ (cạnh tây).
[5] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine.
Documents historiques I. Paris, Téqui, 1923. Tr. 26.
[6] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 157
[7] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 434.
[8] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 178.
[9] Theo cha L. Cadière, Bulletin des Amis du Vieux Hué 1924. No
4, chú thích số 4&5, tr. 325, “Thơ Mật” là giản âm của từ “thơ kư
mật” (secrétaire secret) chứ không phải tên riêng của ông này, v́
ông làm việc cho chúa Hiền, rất được ḷng chúa và ông hoàng cả của
chúa. Nhờ uy tín riêng này, ông đă đứng ra tổ chức đón rước Đức cha
khi ngài kinh lược kinh đô lần thứ hai như nói ở trên.
[10] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 451.
[11] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 435.
[12] Do hoàn cảnh lịch sử phải lo chống nhau với các chúa Trịnh ở
miền Bắc nên việc binh chế vơ bị cũng được các chúa Nguyễn chăm chút.
Quân lính được chia làm 5 cơ: Trung, Tả, Hữu, Hậu và Tiền. Quân số
Đàng Trong vào khoảng 30.000 người, và theo khảo cứu của các sử gia
Pháp th́ không ổn định, tăng giảm bất thường.
[13] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 441.
[14] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 551.
[15] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 454
[16] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 485-486.
[17] Adrien Launay, Sđd, t. I, tr. 570.
[18] Năm 1719, cha Pierre de Sennemand (1660-1730) trong thời
gian sống ở Thợ Đúc (1710-1719) đă lập một phước viện Mến Thánh giá.
Đây là ḍng nữ đầu tiên tại Giáo phận Huế. Cha đă xây cho các chị
một nhà ở, một nhà nguyện và một bệnh xá lớn. Hằng ngày, ngoài các
giờ thiêng liêng, các nữ tu lo dạy dỗ các thiếu nữ, điều khiển bệnh
xá, giúp đỡ kẻ liệt và làm các việc từ thiện khác.
[19] Adrien Launay, Sđd, T. I, tr. 567-568.
[20] Adrien Launay, Sđd, T. I, tr. 570-571
[21] Adrien Launay, Sđd, T. I, tr. 571-572
[22] Adrien Launay, Sđd, T. II, tr. 9.
[23] Adrien Launay, Sđd, T. II, tr. 86-87
[24] Tháng 4-1882, Đức cha Antoine Caspar (Lộc) quyết định dời
đại chủng viện Kim Long (có từ 1866) qua Thợ Đúc lại, lần này xây
gần bờ sông Hương. Tháng 11-1882 khai giảng, số chủng sinh là 42
người. Nhưng gặp chỗ đất thấp, bùn lầy, các thầy bị bệnh thấp khớp
nên tháng 10-1888, đại chủng viện lại phải dời qua Phú Xuân (chỗ
hiện thời).
[25] Adien Launay, Sđd, T. II, tr. 99, 120.
[26] Adrien Launay, Sđd, T. II, tr. 246-274.
[27] Adrien Launay, Sđd, T. III, tr. 113.
[28] Ngài có ở Thợ Đúc năm 1775, lúc chưa làm giám mục. Adrien
Launay, Sđd T. III, tr. 12.240
[29] L.-E. Louvet, La Cochinchine religieuse I. Paris, Challamel
Ainé, 1885, tr 470-471.
[30] https://archives.mepasie.org/fr/annales/confesseurs-de-la-foi-de-1848-a-1862-2-suite
————————————————————–
Mọi góp ư, bổ sung, điều chỉnh xin vui ḷng liên hệ với Linh mục
Phêrô Phan Văn Lợi theo địa chỉ email: witness2005@gmail.com Xin cám
ơn quư vị rất nhiều. Nhóm Biên sử Tổng Giáo phận Huế.
Nguồn : Website TGP Huế
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|