
Lược
sử Giáo xứ Đăk Kia
VÀ
TRẠI PHONG ĐĂK KIA

Nhà thờ Đăk Kia,
Xă Đoàn Kết, Tp. Kon Tum, Tỉnh Kon Tum
I. THÀNH LẬP
LÀNG ĐĂK HƠKIA VÀ LÀNG ĐĂK HƠKIA TAN RĂ (1871-1877).
Năm 1871, Cha Phêrô Nguyên lúc đó đang
phụ tá Cha Do tại Rơhai (Tân Hương ngày nay) đă t́m qua phía bên kia
sông để thành lập một nông trại mới, theo khuôn mẫu của nông
trại Rơhai và Đăk Kấm, nhằm canh tác
nơi vùng đất rộng lớn màu mỡ dọc theo bờ sông Đăk
Bla. Làng Đăk Hơkia được Cha Nguyên
thành lập, gần con suối Đăk Hơkia 1 , mà thành phần
bao gồm số dân làng Đăk Kấm cũ dời đi
do sợ dân Sêđăng cướp phá ; một số người Kinh là
người nhà, người làm của Cha, cũng như
số nô lệ Cha đă chuộc lại. Cha Nguyên cho đắp lũy, rào giậu kiên cố
chung quanh làng Đăk Hơkia, với sự giúp sức của các làng bên kia
sông như Kon Hơngo, Kon Rơbang...Dân
của các làng này thường qua sông canh tác trên vùng đất
ph́ nhiêu do con nước lên xuống theo
định kỳ trong năm, đặc biệt có một vùng đất trũng như
cái bàu rất lớn, cung cấp nước tưới
cho cả vùng đất chung quanh. Đó là vùng “đất Chă” mà
người làng Kon Rơbang, Kon Hơngo và
sau này là dân Phương Quư canh tác sinh sống. V́
vậy nên dân các làng này sẵn sàng cộng
tác với Cha Nguyên lập làng mới trấn ngữ hướng
phía nam, để họ an tâm qua lại làm ăn,
bớt sợ dân Jrai (Hơdrông). Trong vài năm, làng Đăk
Hơkia trở nên hưng thịnh, Cha Nguyên
làm nhà thờ rộng răi, nhà xứ, lán trại...và số dân
ngày càng tăng, tuy chưa được bao
nhiêu 2 .
1 Dak Hơkia có nhiều cách viết:
Dak Kia, Dak Kiă, Dak Hơkia, Dak H’Kia, người Kinh thường gọi là Đăk
Tía. Suối Đăk Tía (bắt nguồn từ
suối Đăk Kâm) chảy ngang qua tỉnh lộ 617 có cầu Đăk Tía đi vào Trại
Phong Đăk Tía (Đăk Kia), thuộc
xă Đoàn Kết, Tp. Kon Tum.
2 Cha P.Ban và cha S.Thiệt, Kể
sự Cha Nguyên lập làng Dak Hơkia, “Mở đạo Kontum”, nhà in Quinhon
1933, tr.189-190.
Cha Nguyên đă hướng dẫn dân chúng làm
một chiếc cầu bằng gỗ ván tương đối chắc chắn bắc ngang qua ḍng
sông Đăk Bla, để thuận tiện cho dân chúng qua lại canh tác, thu
hoạch vụ mùa, cũng như để các
Cha sang bên kia sông làm việc mục vụ. Đó là chiếc cầu đầu
tiên bắc qua sông Đăk Bla, do Cha
Nguyên và giáo dân Kinh - Thượng thực hiện 3 .
Sau khi Cha Do trở về Đồng Hâu (B́nh
Định) dưỡng bệnh và qua đời tại đó vào năm 1872, tiếp đến Cha Hugon
(Xuân) thay thế cũng qua đời năm 1877, th́ theo lệnh của Cha bề
trên Dourisboure (Ân), Cha
Nguyên phải trở lại phụ trách Rơhai, lúc đó đang vắng bóng
linh mục coi sóc. Cha Nguyên về Rơhai
th́ dân làng Đăk Hơkia cũng sợ không dám trụ lại,
nên một số theo Cha Nguyên về Rơhai,
số khác xin nhập vào một số làng lân cận như Kon
Hơngo, Kon Rơbang, Kon Tum... Nhà cửa
và lán trại đều được dỡ đem về Rơhai. Nhà thờ
Đăk Hơkia được dỡ đem về dựng tại địa
sở Kontum (Chính ṭa), về sau bị cháy vào năm 1897. Và thế là làng
Đăk Hơkia tan ră! 4
II. LÀNG PHONG ĐĂK
KIA (1920-1975)
Đăk Kia là một làng nhỏ cư dân toàn là
người sắc tộc, cách thành phố Kon Tum chừng 6 km về phía tây bắc,
trên trục đường đi Ya Chiêm. Trại Phong được xây dựng dọc theo bờ
suối Đăk Kia, nằm biệt lập với
các cư dân khác, xung quanh trại chỉ là đồng hoang và rừng
tre.
1. Giai đoạn qui tụ và xây dựng cơ sở
phục vụ cho ngƣời bệnh phong tại Đăk Kia - H́nh thành Họ đạo Đăk Kia
(1920-1938)
Từ lâu, trong khi làm việc mục vụ
trong các họ đạo người Kinh và người Thượng tại
những vùng lân cận thị xă Kon Tum,
chính các Linh mục thừa sai đă chăm sóc những
người mắc phải một trong những căn
bệnh kinh khủng nhất: Đó là bệnh phong cùi. Những
người Thượng mắc phải căn bệnh hiểm
nghèo này thường bị cộng đồng xua đuổi, thậm chí
đầu độc. Các Cha đă cố gắng qui tụ họ
lại, nhằm làm giảm bớt hay chữa lành những đau
khổ của họ; hay chỉ cho họ biết những
đau khổ mà họ phải chịu là phương thế để cứu rỗi
linh hồn.
Từ thập niên đầu của thế kỷ XX, các
Cha thừa sai ở Kon Tum đă t́m ṭi và áp dụng
một phương pháp chữa trị tại chỗ đơn
giản nhưng khá hiệu nghiệm: dùng bùi nhùi để đốt
các vết sần sùi xuất hiện trên da.
Việc chữa trị được lặp đi lặp lại nhiều lần giúp chặn đứng
căn bệnh, và hạn chế các trường hợp
bệnh mới xuất hiện 5 .
Đến năm 1920, các Cha thừa sai bắt đầu
qui tụ các bệnh nhân phong lại một nơi gần bờ
suối Đăk Kia 6
. Ông Jérusalemy, công sứ tỉnh Kon Tum
lúc bấy giờ tham gia thiết lập cơ sở
Trại Phong, và các bác sĩ người Kinh ở
Kon Tum cũng bắt đầu cộng tác về chuyên môn 7 .
Năm 1921, địa sở Phương Ḥa được thành
lập với cha sở tiên khởi Phêrô Irigoyen (Hương), bao gồm cả Ruộng
Lào và các vùng lân cận. Cha Irigoyen đảm nhận phụ trách
mục vụ cho những tín hữu Công giáo tại
Trại Phong này 8 .
3 Cha P.Ban và cha S.Thiệt, sđd,
tr. 206 và 210.
4 Cha P.Ban và cha S.Thiệt, sđd
tr. 191 và 197.
5 Marcel Ner, “Lépreux et
Léproseries Moi”, Extrait de l’ Éveil Économique du 7 Juin 1931,
trang 22.
“Thật vậy, từ khoảng 20 năm nay, các
Cha Thừa Sai đă t́m và phổ biến cho người dân tộc một phương pháp
thật là hiệu nghiệm để chặn
đứng sự phát triển căn bệnh hiểm nghèo này. Phương pháp này rất đơn
giản:
Khi thấy những vết sần sùi xuất hiện
trên da, người ta dùng bùi nhùi để đốt chúng, bất chấp t́nh trạng
mất cảm giác của những vết
thương này... Những khối u nghi ngờ cũng bị đốt, một phương tiện hữu
hiệu đă chăn đứng con bệnh tận
gốc rễ”.
6 Bác sĩ Lê Viết Thuật và A Yar,
Vài nét về Khu điều trị phong Đak Kia tỉnh Kon Tum, Đặc san Trại
Giao Lưu Kết Thân 1998, tr. 2.
7 Ông Jérusalemy, người Pháp,
công sứ tỉnh Kon Tum 1919-1923. Xem thêm: Marcel Ner, sđd.
8 x. Echos tháng 2-3-4/1948,
tr. 6.
Cơ sở ban đầu của Trại Phong chỉ là 3
căn nhà cḥi nhỏ làm nơi cư trú cho 10 bệnh
nhân cùi: 5 người Kinh và 5 người
Thượng. Năm 1924, số người cùi của Trại Phong tăng
lên con số 16 (8 Kinh và 8 Thượng).
Bác sĩ Mickaniewski đă cố gắng phát triển Trại Phong này 9 .
Năm 1926:
-Nhiều ngôi nhà sàn nhỏ theo kiểu
người sắc tộc được dựng nên.
-Một ngôi nhà lớn dài 25m, một phần
dành cho các phụ nữ và con trẻ bị bệnh.
-Một bệnh xá.
-Một nhà Lâm Chung.
-Một Nhà Nguyện (hầu hết bệnh nhân là
người Công giáo).
“Lúc bấy giờ, trại phong có chừng
60 người bệnh. Chính quyền đồng ư trợ cấp cho mỗi
bệnh nhân mỗi ngày: 4,50 đồng/ người
lớn; 2 đồng/ trẻ em. Ngoài ra, họ c̣n được lănh thuốc, chăn, màn
theo định kỳ. Trại được tổ chức theo kiểu một nông trại tự cung, tự
cấp. Những người cùi c̣n khoẻ th́ trồng lúa, trồng rau, trồng chuối;
c̣n những người khác th́ đi vào rừng sâu đào củ, đào măng, đốn chặt
củi để nấu ăn.v.v.
Đôi khi, họ c̣n đánh bắt cá dưới suối.
Một Bác Sĩ ở Kon Tum mỗi tháng đến Trại Phong hai lần để khám bệnh
và phát tiền trợ cấp cho họ. Số người cùi gia tăng từ 60 - 80 mà hầu
hết là người Thượng. Từ năm 1926, hoàn cảnh sống của người cùi được
cải thiện dần dần, Bác sĩ Morin và Mickaniewsky viết: “Mọi sự đă sẵn
sàng để tiếp nhận những
người cùi của Tỉnh, nhưng người ta không thể đưa họ về đây được v́
thiếu ngân khoản” 10 .
Cha Irigoyen, cha sở Phương Ḥa ở cách
Trại Phong 2 km đă nỗ lực t́m kiếm nguồn tài
chính để lo “cho bổn đạo, cho trường
học, cho trại phong, cho nhà thờ của ngài” 11
. Năm 1931, vào tuổi 75 (Cha sinh
21/11/1856), ngài bắt đầu xây dựng nhà thờ Phương Ḥa to lớn
và đẹp đẽ. “Ngài rất lanh lợi, không
hề mỏi mệt, nhiệt t́nh chăm lo mục vụ của địa sở, tất cả dành
cho Trại Phong” 12 .
Tuổi cao, bệnh nặng, sau một lần gắng
gượng chỗi dậy đi ban các bí
tích sau hết cho một người cùi, ngài bị kiệt sức và qua đời đúng
ngày lễ Phục Sinh 21/04/1935.
Cha Phêrô Trần Ngọc Thích được bổ
nhiệm chính xứ Phương Ḥa tiếp nối công việc
của Cha Irigoyen. Năm 1937, t́nh h́nh
của Trại Phong Đăk Kia như sau:
“Trại có khoảng 80 người cùi nghèo,
hầu hết là người Thượng. Chính quyền có trợ cấp
cho họ hàng tháng, và giao cho một
trong những giáo lư viên của chúng tôi chăm sóc những người cùi
tại đây, theo hướng dẫn của một Bác sĩ ở Kon Tum, vị bác sĩ này
thường xuyên đến thăm khám các bệnh nhân. Những người cùi được ở
trong những túp lều kiểu nhà sàn của người Thượng. Trong làng có một
Ngôi nhà nguyện nhỏ thô sơ. Thỉnh thoảng Linh mục đến đó để dâng
thánh lễ và cho các bệnh nhân Rước Lễ. Cha sở nói rằng các tín hữu ở
Trại Phong Đăk Kia thân yêu này đáng được khen ngợi v́ ḷng đạo đức
nhiệt thành của họ”
13 .
9 x. Marcel Ner, sđd. Bs
Mickaniewski cũng như Bs Morin là các bác sĩ của Cơ quan Hỗ trợ Y tế
tại Kon Tum.
10 x. Marcel Ner, sđd.
11 x. Tiểu sử Lm Phêrô Irigoyen
(1856-1935), Văn khố MEP.
12 x. Tiểu sử Lm Phêrô Irigoyen,
sđd.
13 x. La Mission des Pays Mois
en 1937, Imprimerie Bx Cuénot, à Kontum.
Báo cáo năm 1938 về giáo phận Kon Tum
ghi nhận:
“Những tín hữu Đăk Kia rất đạo đức.
Cha Phêrô Thích, cha quản xứ của họ rất vui
mừng khi thấy những người nghèo này
đến với nhau mỗi tối để cầu nguyện chung. Họ đi xưng tội và rước
Ḿnh Thánh Chúa hàng tháng, và không bao giờ do lỗi của họ nếu khi
qua đời mà không nhận được các nghi thức cuối cùng. Khi linh mục đem
Của Ăn Đàng đến cho một bệnh nhân hấp hối, họ dọn dẹp túp lều tồi
tàn của họ, chuẩn bị chiếc bàn nhỏ để
đặt Ḿnh Thánh Chúa, và tất cả đều
quỳ gối cầu nguyện sốt sắng”14 .
2. Tu Hội Nữ tử Bác
Ái Thánh Vinh Sơn đến phục vụ - Giai đoạn phát triển
Đầu năm 1938, Đức Cha Martial Jannin (Phước)
mời các Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn lên
phục vụ, chăm sóc bệnh nhân tại Trại
Phong.
Tháng 04/1938, sau lễ Phục Sinh, hai
Nữ Tử Bác Ái người Pháp: Sơ Joseph Gérente và
Sơ Geneviève Daras đă đến Kon Tum.
Cộng đoàn “Maison de Charité” (Nhà Bác Ái) h́nh
thành, tọa lạc gần cạnh Nhà thờ Chính
ṭa (nay là Trường THPH Chuyên Nguyễn Tất
Thành).
Các Sơ bắt đầu đi thăm các làng Thượng
lân cận thị xă Kon Tum, chăm sóc những
bệnh nhân phong tại nhà họ. Sau đó các
chị tụ tập họ lại trong làng Đak Kia, mới đầu chỉ
dựng được một số cḥi tranh thô sơ cho
bệnh nhân ở tạm. Mỗi tuần hai lần, các Sơ đến
thăm bệnh nhân phong tại làng Đăk Kia,
thường đi bằng xe ngựa, mùa mưa śnh lầy quá th́
đi bằng ngựa.
Năm 1939, các Nữ Tử Bác Ái đến
và chăm sóc các bệnh nhân tại trại cùi, số bệnh nhân
được thu dung lên đến 80 bệnh nhân.

Các Sơ Nữ tử Bác
Ái đi thăm làng cùi Đăk Kia.
Ảnh: Cộng Đoàn
Vinh Nguyên cung cấp.
Năm 1941, có Sơ Marie Louise
Banet và Sơ Maria Renée Le Bal vẫn hàng ngày đi
ngựa qua rừng cùng các bệnh nhân để
chọn đất, phá rừng, đốn cây đem về dựng cḥi cho
bệnh nhân và giúp khai thác đất với
tổng diện tích 52 ha, cất nhà tranh theo kiểu dân sắc tộc ở rừng.
Năm 1956, bệnh xá được xây đơn
sơ có 10 giường cho bệnh nhân.
Năm 1958, các Nữ Tử Bác Ái ở
hẳn tại trại để phục vụ bệnh nhân. Hằng tuần có Bác sĩ
Việt Nam thuộc dân y viện Kon Tum đến
khám bệnh cho bệnh nhân.
14 x. Compte Rendu 01/01/1938,
tr. 166.
Thời gian này cũng có 3 nữ tu người
Việt cùng cộng tác với 2 nữ tu Pháp lo về y tế, ẩm
thực, đi chợ phục vụ bệnh nhân.
Suốt thời gian từ 1941 đến 1958, Sơ
Marie Louise Banet cùng với chị em trong cộng
đoàn xây cất lại cḥi cho bệnh nhân -
nhà nguyện - nhà bếp.v.v. Trại Phong bắt đầu h́nh
thành: nhà cửa, đường sá tương đối ổn
định, dừa được trồng có hàng lối, cảnh quan vẫn c̣n
cho đến nay.
Hàng tuần có Bác sỹ Việt Nam thuộc dân
y viện Kon Tum đến khám bệnh cho bệnh
nhân, số bệnh nhân thu dung lên 120
giường.

Sơ Marie Louis
Banet xây dựng Trại Phong và chăm sóc bệnh nhân.
Ảnh: Trích từ phim
của Lm Christian Simonet, MEP, năm 1959.
Cũng năm 1958, Đức Cha Paul
Seitz (Kim) đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Đăk
Kia. Với sự điều động của Sơ Louise
Banet, một nhóm thợ từ Sài G̣n lên ở đó trong thời
gian 6 năm để xây cất Nhà thờ và hoàn
thành Trại Phong.
Lúc đó bệnh nhân lên đến 900 nhân khẩu,
và số Sơ lên đến 7 người, để săn sóc bệnh
nhân và trẻ em.
Năm 1960 -1963 xây cất nhà gạch
thay thế nhà tranh cho các bệnh nhân. Xây dựng
thêm Trung tâm gồm nhà giữ trẻ, nhà
nội trú cho các em gái, vườn trẻ, trường tiểu học,
xưởng mộc...
Ngày 18/01/1962, Cha Giffard (Ngọc)
được Đức Cha bổ nhiệm làm tuyên úy Trại
Phong. (x. “Dư Âm” số 85, tháng
03/1962, tr. 6).
Ngoài việc chăm sóc bệnh nhân, các
Cha, các Sơ, các Y Bác sĩ c̣n đảm nhiệm việc
chăm sóc, giáo dục học sinh và dạy
nghề.
Năm 1967, nữ Bác sĩ Pháp
Christiane Granger t́nh nguyện đến chăm sóc 300 bệnh
nhân phong và giúp xây cất thêm: nhà
em trai, thành lập các pḥng xă hội cho các bệnh
nhân và gia đ́nh họ.
Từ năm 1968 đến năm 1975 có Cha
Marty (cố Tư) ở làm mục vụ và dâng lễ cho bệnh
nhân.
Năm 1969, bác sĩ Granger bị
trúng ḿn, tử nạn trên đường đi từ Kon Tum đến làng
Kon H'ring. Nữ Bác sĩ Anne Marie
Dutheil (Nữ Tử Bác Ái) cư ngụ tại Đà Lạt tiếp tục đến
chăm sóc bệnh nhân mỗi năm hai lần,
mỗi lần một tháng.
Khi Sơ Louise Banet đă hoàn thành
nhiệm vụ xây cất Trại phong. Bề trên sai Sơ đi Thái
Lan, sau đó về Pháp. Năm 1969, có Sơ
Anne Esnol qua thế, tiếp tục công việc của Sơ Louise Banet.
Năm 1972, Sơ Marie Laure Trần
Thị Vinh thay Sơ Anne Esnol về Pháp thăm gia đ́nh.
Trại Phong bị ngập lụt (cây lụt lớn
năm 1972). Nhà Cộng đoàn, nhà thờ, nhà bệnh nhân
đều bị chôn vùi trong śnh lầy. Các
con vật đều bị cuốn trôi đi hết. Các bệnh nhân đói v́
không đi chợ được. Đức Cha Paul Seitz
(Giám mục đương nhiệm) dùng trực thăng thả
bánh ḿ xuống để cứu đói. Các nữ tu
phải mất 3 tháng sau đó để dọn nhà cửa và ổn định
cuộc sống trong Trại.
Cuối năm 1972, Sơ Anne Esnol
trở lại Đăk Kia, nhưng v́ Sơ Françoise là Chị phụ
trách Trại Phong Bến Sắn bị tử nạn rớt
máy bay, nên Bề trên gọi Sơ Esnol về thế Sơ Françoise ở Trại Phong
Bến Sắn. V́ vậy Sơ Marie Laure Vinh đă thay thế Sơ Esnol phụ
trách Cộng Đoàn và lo cho bệnh nhân.
Chiến cuộc đang ngày càng leo thang.
Các nữ tu Hội Ḍng Ảnh Phép Lạ vào
phục vụ Trại Phong: Yă Marie Baptiste, Yă Marie Génèviève, Yă Marie
Monique.
Năm 1973-1975, cộng đoàn Nữ Tử
Bác Ái vẫn c̣n 11 Sơ để tiếp tục phục vụ bệnh
nhân và trẻ em. Năm 1974: 630 bệnh
nhân (x. Lịch Công giáo năm 1974, tr. 143);
Năm 1975, Trại Phong: Cô nhi 305 em,
328 bệnh nhân (x. Lịch Công giáo năm 1975, tr. 150).
Năm 1975, Cha Đại Diện Tỉnh lên
gặp các Sơ Nữ Tử Bác Ái và quyết định cho các Sơ
về Sài G̣n. Chỉ c̣n 4 Sơ lớn ở lại.
Đang lúc đó Sơ Marie Laure Vinh tĩnh tâm năm ở Sài
G̣n, tĩnh tâm kết thúc ngày 15/03/1975
đường hàng không ngưng hoạt dộng, Sơ không về
Kon Tum được, đành ở lại Sài G̣n đi
cứu trợ.
Trong lúc đó các Sơ ở Kon Tum được
lệnh của Đức cha Paul Seitz phải rời khỏi Kon
Tum, để cho các Yă ḍng Ảnh phép Lạ
vào thay thế tại Trại phong - gồm các Yă: Marie
Baptiste, Marie Génèviève (Yă Phương),
Germaine, Marie Rose, Anne Marie, Marie Monique, Sabine, Justine,
Domonique Marie, Françoise Régis.
Sau 30/04/1975, Trại Phong bị
trưng thu15. Nhà cửa, của cải bị tịch thu, và các nữ tu
Ảnh Phép lạ đang phục vụ bị
buộc rời khỏi Trại Phong trở về nhà. Bệnh nhân phải giải tán
về làng, chỉ c̣n các bệnh nhân tàn phế
không đi được ở lại Trại. Chỉ c̣n lại ngôi Nhà thờ
Đăk Kia là không bị quản lư, thỉnh
thoảng được Cha sở Phương Ḥa đến dâng thánh lễ.
Một ḿnh Yă Marie Génèviève (Yă Phương)
là y tá, được ở lại để chăm sóc, phục vụ bệnh
nhân...
15 x. Bản báo cáo hàng năm, năm
2005 của ông Lê Viết Thuật - A Yar có viết:
“ + Năm 1975 ngành y tế chưa có người
tiếp quản, do Xă Đoàn Kết nhận lĩnh lương thực của pḥng
xă hội cấp phát cho bệnh nhân phong.
+ Năm 1976 Ty Y Tế Gialai-Kontum cử Y
Bác Sỹ Thục và 01 dược sỹ, 2 y tá vào điều trị cho bệnh
nhân.
+ Từ năm 1976 đến năm 1982 Y sỹ Lai
Thục làm Giám đốc phục vụ bệnh nhân phong.
+ Sửa chữa một số nhà ở và xây cất nhà
ăn cho bệnh nhân.
+ Từ năm 1982 đến năm 1984 Y sỹ Nguyễn
Thế Nhâm thay cho Y sỹ Lai Thục về hưu.
+ Từ năm 1984 Uỷ Ban Tỉnh và Sở Y tế
cử Bác sỹ Lê Viết Thuật thay cho y sỹ Nhâm nghỉ hưu.
+ Từ năm 1995 đến năm 2005 Bác sỹ
Thuật trực tiếp ở trại phong xây dựng thêm 3 pḥng học và một
pḥng khám bệnh. Quản lư 200 bệnh nhân
phong và 354 người già và con em bệnh nhân tại. Số sỹ gồm 3
người, Y sỹ 3 người, 10 Y tá và các
công chức khác phục vụ cho bệnh nhân phong, mở một lớp dạy may
t́nh thương, một lớp dệt thổ
cẩm cho con cái các làng phong học tập do Sr Marilau và Sr Phương
phụ trách giúp đỡ cho giám đốc”.
(x. Bs Lê Viết Thuật và A Yar, Vài nét về Khu điều trị phong Đak Kia
tỉnh Kon Tum, Đặc san Trại Giao
Lưu Kết Thân 1998, tr. 2-3).
III. GIAI
ĐOẠN CHUYỂN BIẾN VÀ TRƢỞNG THÀNH - THÀNH LẬP GIÁO XỨ ĐĂK KIA
(1975-NAY).
Năm 1989, Trung Tâm Pḥng Chống
Bệnh Xă Hội Tỉnh Kon Tum trực tiếp quản lư
Trại Phong. Bác sĩ Nguyễn Viết Thuật,
trưởng điều hành Trại Phong xuống Sài G̣n xin
Sơ Giám Tỉnh Nữ Tử Bác Ái cho một số
Nữ Tu lên làm việc lại. Hai Sơ Paul Tư và Marie
Laure Vinh trở lại Kon Tum giúp Trại
Phong, chưa được một năm chính quyền xă bảo về
v́ không có hộ khẩu.
Năm 1996, Đức Cha Phêrô Trần
Thanh Chung xin Sơ Giám Tỉnh cho các Nữ Tử Bác
Ái trở lại Kon Tum. Sơ Marie Laure
Vinh, Sơ Marie José Nơi, Sơ Marie Thúy Nga (y tá),
Sơ Marie Mến (điều dưỡng)...lần lượt
lên Kon Tum, tạm trú ở Ḍng Ảnh Phép Lạ; hàng
ngày các nữ tu qua Trại Phong giúp
bệnh nhân, mở lớp huấn nghiệp cho các em thiếu nữ
trong trại và các em trên làng cùi
cùng xuống học nghề.
Năm 2000 : Ngày 29/11/2000,
Cộng đoàn Nữ tử Bác Ái Vinh Sơn chính thức được
thành lập với tên là Cộng Đoàn Vinh
Nguyên Kon Tum. Ngày 05/05/2002, được sự cho
phép và giúp đỡ của TGM, Cộng Đoàn
Vinh Nguyên dời về ở số 30 Nguyễn Trăi, Phường
Thống Nhất, TP Kon Tum (Nhà hưu cũ của
các Linh mục GP Kon Tum). Các Sơ tiếp tục
vào Đăk Kia giúp Trại Phong.
Năm 2005, số bệnh nhân ở Trại
Phong là 190 người (96 nam, 94 nữ), đa số là tín hữu
Công giáo. Yă Génèviève (Yă Phương)
người sắc tộc thuộc Ḍng Ảnh Phép Lạ, giúp và lo
cho bệnh nhân - dạy dệt thổ cẩm ; hai
Nữ Tu Bác Ái coi về giáo dục, dạy các em về nhân
bản - về đời sống người Kitô hữu qua
phim ảnh; dạy giáo lư, chia sẻ Lời Chúa do các giáo
phu, giáo lư viên đảm trách.
Họ đạo Đăk Kia lúc này có 350 giáo dân,
do Cha sở Phương Hoà Giuse Đỗ Hiệu kiêm
nhiệm. Mỗi tuần chỉ có Thánh lễ vào
Chúa nhật tại Nhà thờ (ngày thường không có). Bệnh
nhân đau yếu được các cha đến ban các
Bí Tích.

Yă Phương và sơ Y Dung (Ḍng Ảnh Phép
Lạ) chăm sóc,
rửa vết thương cho bệnh nhân phong (12/2017)

Cộng đoàn các Nữ
tu Ḍng Ảnh Phép Lạ tại Đak Kia (2021)
Năm 2012: Cha Luy Gondaga
Nguyễn Quang Vinh, cha xứ Phương Ḥa kiêm nhiệm
Đăk Kia, đă sửa sang nhà thờ, sắm hệ
thống âm thanh, đặt lại quả chuông mới, làm đường xe
lăn cho người khuyết tật, tân trang
mặt bàn thờ, làm mới bàn Lời Chúa, gia cố móng nhà thờ.
Thánh lễ tạ ơn và làm phép chuông mới
ngày 18/01/2013. Năm 2014, số giáo dân là 570
người.
Năm 2015: Ngày 06/01/2015, ĐGM
Aloisiô kư quyết định thành lập Giáo xứ Đăk Kia.
Cha Giêrôm Trần Văn Trạch ở TGM đến
giúp mục vụ giáo xứ Tân Điền và Đăk Kia. Từ 16/02 - 13/04/2015, Cha
Trạch vào dưỡng bệnh trong làng phong, giúp dâng thánh lễ.
Ngày 06/10/2015, Cha Giuse Đinh Quốc
Trụ, OFM được bổ nhiệm chính xứ giáo xứ
Tân Điền, kiêm giáo xứ Đăk Kia.
Năm 2016: Ngày 23/01/2016, tại Nhà thờ
Giáo xứ Tân Điền, Đức cha Aloisiô Nguyễn
Hùng Vị, Giám Mục Giáo Phận Kontum đă
chủ tế thánh lễ nhận xứ Tân Điền, kiêm giáo
xứ Đăk Kia của Linh mục Giuse Đinh
Quốc Trụ.
Số giáo dân giáo xứ Đăk Kia: 680 giáo
dân.
Năm 2017 : Ngày 19/12/2017,
Cộng Đoàn Vinh Nguyên Kon Tum (Nữ tử bác Ái Vinh
Sơn) 30 Nguyễn Trăi dời vào ở luôn tại
Trại Phong Đăk Kia, và hoàn trả Nhà hưu (cũ) lại
cho Giáo Phận.

Cộng Đoàn các Nữ
tu Nữ tử Bác Ái Vinh Sơn tại Đăk Kia 09/2018
Năm 2020: Giáo xứ Đăk Kia có
tổng cộng 1.207 giáo dân.
* QUƯ LINH MỤC PHỤ
TRÁCH GIÁO XỨ ĐĂK KIA







WGPKT(06/12/2021) KONTUM
Nguồn :
Trang web Giáo Phận Kontum
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|