Giáo phận Kontum

Nhà thờ Giáo xứ KON JƠDREH

 

Nhà thờ Giáo xứ KON JƠDREH
Giáo hạt Kontum

 

Địa chỉ :   Sth :  Đc: Xă Đăk Blà, tp Kontum    ( Bản đồ )

Chánh xứ : Linh mục Phaolô Nguyễn Hùng Sơn

Tel

 

E-mail

 

Năm thành lập

 

Bổn Mạng

Đức Mẹ Mân Cô (7/10 )

Số giáo dân

6.564

Giờ lễ

Chúa nhật     :  5:45  -  7:45  -  16:00

Ngày thường : 5:00 (thứ 2
                      17:30 (thứ 2,5,7)

Giờ lễ có thể thay đổi theo mùa hay mục vụ của Gx. Xin xác nhận trước  khi đi lễ

Các nhà thờ lân cận :  

Tư liệu :  Lược sử Giáo xứ - H́nh ảnh Giáo xứ 

-  Tin tức sinh hoạt

 

Lược sử Giáo xứ KON JƠDREH

Nhà thờ Kon Jơdreh, xă Đak Blà, Tp Kon Tum, Tỉnh Kon Tum

GIỚI THIỆU CHUNG

Giáo xứ Kon Jơdreh ngày nay nằm trên địa bàn xă Đak Blà, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, gồm 10 làng người sắc tộc và 3 xóm giáo người Kinh. 10 làng Thượng đó là: 1/Kon Mơnei Kơtu, 2/Kon Jri Xut, 3/Kon Hring, 4/Kon Kơpăt, 5/Kon Rơlang, 6/Kon Drei, 7/Thong U|k (c̣n được gọi là Plei Dơ\ng), 8/Plei Tơnge\t, 9/Kon Ơxoch, 10/Kon Gur (hay Kon Thong Gur).

5 làng cuối ngày xưa thuộc cùng một làng. Trong việc điều hành giáo xứ, 3 làng: Plei Tơnge\t, Plei Dơ\ng và Kon Ơxoch được gộp chung thành Plei Jơdreh.

3 xóm giáo người Kinh là: 1/Xóm giáo Vinh Sơn, 2/Xóm giáo Giuse, 3/ Xóm giáo Vô Nhiễm.

Bổn mạng: Trước kia theo bổn mạng của địa sở Kon Mơnei là Thánh Giuse. Hiện tại bổn mạng của giáo xứ Kon Jơdreh là lễ Đức Mẹ Mân Côi, mừng vào ngày 07/10 hàng năm.

Làng Kon Jơdreh xưa kia được gọi là làng Kon Kơxâm, dân số chừng 125 người, địa điểm tại bờ sông gần làng Kon Băh hạ nguồn suối Đak Pơ Tơ\ng, thuộc xă Hà Tây, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai ngày nay. Sau trận dịch bệnh khủng khiếp xảy ra làm chết nhiều người (1864), dân làng đă di chuyển tới định cư một nơi khác. Làng mới được đặt giữa hai con suối Kơ Pốt và suối Kon Jơdreh và được đặt tên là Kon Jơdreh như ngày nay.

(Con suối Kon Jơdreh ngày xưa dọc theo hai bên bờ có mọc nhiều cây jơdreh, một loại cây rừng chịu độ dốc, kiến vàng thích làm tổ ở lá cây này. Cây ra trái vào tháng tư, tháng năm, trái tựa trái cacao, to bằng cổ tay, dài khoảng 10cm. Khi trái chín vỏ bể ra, có màu tím đỏ).

I. THỜI KỲ SƠ LẬP (1851-1866)

1. Giai đoạn c̣n là làng Kon Kơxâm 1851-1866

Kon Kơxâm, một trong bốn trung tâm truyền giáo tiên khởi, phía đông Kontum, do Cha Combes (Bê) phụ trách vào năm 1851.

Ngày 28/12/1853, ông Hmur chủ làng Kon Kơxâm là người Bahnar đầu tiên lănh bí tích Rửa Tội, và ông đă trở thành một tín hữu nhiệt thành, gương mẫu.

Kế đến là bà Jiêng, vợ ông Hmur, vốn là một “bơjâu” (bà phù thuỷ) nổi tiếng, đă từ bỏ nghề phù thủy để theo đạo, lấy tên thánh là Maria.

Bà Anna Hmon em gái ông Hmur, chồng chết sớm, có một con trai tên là Tót. Hai mẹ con Hmon và Tot đă ṭng giáo trong cùng một ngày.

Tiếp theo là ông Lin (trước khi rửa tội tên là Poi), trước đây từng chủ mưu sát hại đoàn truyền giáo tại Kon Kơxâm. Ông đă trở nên một tín hữu có tinh thần truyền giáo, thuyết phục nhiều người theo đạo như ông.

Một tín hữu nữa là anh Hloi, một thanh niên ốm yếu bệnh tật, nhưng tâm hồn nhiệt thành tông đồ. Anh tận lực giúp cha Bề trên Combes dạy giáo lư và nêu gương đạo đức, thánh thiện cho mọi người.

Qua năm 1854, thêm 20 người nữa xin học đạo và chịu Phép Rửa. Đó là cộng đoàn tín hữu đầu tiên của cơ sở Truyền giáo Bahna-Jơlơng. Cha Combes đă chọn Đức Mẹ Giải Cứu làm bổn mạng cộng đoàn.

Sau 6 năm coi sóc Kon Kơxâm (1851-1857), ngày 14/9/1857, Cha Bề trên Combes phải bỏ dở buổi dạy giáo lư, nằm liệt luôn và qua đời khi vừa 32 tuổi, trong sự tiếc thương của dân làng Kon Kơxâm và các làng lân cận, có đạo cũng như lương dân. Cha được chôn cất tại Kon Kơxâm. Về sau chú Tot và chú Hloi qua đời cũng được chôn hai bên cạnh mộ Cha Combes.

Cha Dourisbouire (Ân) từ Kon Trang đến thay ngài làm Bề trên vùng truyền giáo và coi sóc địa sở Kon Kơxâm.

Tại thời điểm này, trên vùng truyền giáo Kon Tum chỉ c̣n có 3 Cha: Cha Bề trên Dourisboure (Ân) là vị thừa sai ngoại quốc duy nhất, và hai linh mục người Việt đó là Cha Do đang ở Rơhai và Cha Bảo phụ lực tại Kon Sơlăng với Cha Bề trên. Cuối năm 1863, vùng truyền giáo được thêm một vị thừa sai nữa là cha G.B Besombes (Kính), được gởi đến điểm truyền giáo Kon Kơxâm. Từ đây, một chuyển hướng trong phương thức truyền giáo cho cả vùng bắt đầu, trong đó có liên quan đến việc khai sinh họ đạo Kon Jơdreh.

2. Thành lập làng mới Kon Jơri Krong, tiền thân làng Kon Jơdreh 1866

Cơn dịch đậu mùa xảy ra vào năm 1864 và kéo dài trong suốt 2 năm đă tàn phá cả miền, nặng nề nhất là tại Kon Kơxâm, cướp đi gần nửa số giáo dân. Đa số những tín hữu lâu năm, đức tin vững vàng và có uy tín trong làng đều lần lượt ra đi, chỉ c̣n ông Hmur sống sót.

Vào thời điểm năm 1866, làng Kon Kơxâm chưa phải là một làng toàn ṭng, c̣n một số đông dân ngoại giáo cư trú. Ông Hmur đă già yếu, uy lực giảm sút, họ không c̣n kiêng nể ông nữa. Trong làng, các tín hữu thường xuyên bị những người ngoại giáo dèm pha, thậm chí loại trừ, khiến cho các tân ṭng dễ nản chí, bỏ đạo. Hơn nữa, thiên tai dịch bệnh xảy ra vừa rồi được dân làng liên hệ đó là sự trừng phạt của thần do làng có người theo đạo Công giáo, và các giáo sĩ chính là những người đă mang tai ương tới. V́ vậy việc loan báo Tin Mừng trong buôn làng cũ không đạt kết quả.

Trước t́nh h́nh đó, Cha Dourisboure và Cha Besombes đă bàn bạc tiến hành cách làm khác: đó là thành lập làng mới. Việc lập làng mới có nhiều ưu điểm:

-Tách các tín hữu tân ṭng ra khỏi làng cũ, để tránh sự chung đụng và ràng buộc có tính cách mê tín dị đoan cho tín hữu tân ṭng.

-V́ người Thượng thời đó tin rằng những tập tục mê tín dị đoan được thi hành lúc ở nhà mới hoặc làng mới th́ về sau phải được tuân giữ đều đều, nếu không muốn hứng chịu cái chết hay tai ương ập đến cho dân làng, nên khi dọn đến nhà mới hay làng mới là dịp rũ bỏ những tập tục mê tín ràng buộc từ trước mà thiết lập những điều khoản mới thay thế.

-Lựa chọn những nơi đất đai bằng phẳng, mầu mỡ để lập nông trại kiểu mới, đưa dụng cụ cày bừa và trâu ḅ dưới xuôi lên để tập cho cư dân canh tác, tự cung tự cấp lương thực.

Vậy Cha Dourisboure đă chọn một nơi để thiết lập một sơ sở mới cũng nằm bên hữu ngạn sông Dak Bla, ở giữa quăng đường từ Kon Kơxâm đến Rơhai (phía trên làng Kon Mơnei). C̣n Cha Besombes th́ qua lập làng Plei Tơwer.

Khi đất đă được chọn xong, vị trí ngôi làng mới đă được xác định, th́ Cha Dourisboure thuyết phục giáo dân làng Kon Kơxâm ra đi với ngài. Lúc đầu phần lớn họ đồng ư và hứa sẽ đi lập làng mới, nhưng khi đến ngày quyết định di dời vào vào tháng mười hai năm 1866, th́ chỉ có một số ít đi mà thôi. Chỉ có 4 gia đ́nh ra đi đó là: gia đ́nh ông Hmur và một gia đ́nh công giáo khác trong làng; một gia đ́nh bên lương mới nhập làng Kon Kơxâm; và số người nhà hiện tại của Cha Dourisboure. Tổng cộng chừng 16 người! Cha Dourisboure cho dựng một căn nhà tạm, một nửa làm nhà nguyện, một nửa làm nhà ở cho ngài và người nhà của ngài. Mọi người bắt tay lo trỉa lúa và vụ mùa đầu tiên thu được kết quả rất khả quan. Chẳng bao lâu, dân làng Kon Kơxâm và mấy làng lân cận thấy làng mới dễ sinh sống nên xin gia nhập. Đến năm 1868 làng mới này đă được 10 nóc nhà, dân số càng ngày càng tăng lên. Làng này ban đầu gọi là Kon Jơdri Krong, sau gọi là Kon Jơdreh cho đến nay.

II. THỜI KỲ TRƢỞNG THÀNH (1867-1955)

1. Họ đạo Kon Jơdreh 1867-1898

Năm 1867-1868: Cha Suchet (Cảnh) lên phụ trách Kon Jơdreh thay Cha Dourisboure đi dưỡng bệnh. Cha Suchet đến Kon Jơdreh, chỉ được 3 tháng, ngài bị sốt rét nặng và qua đời năm 1868.

Năm 1868-1870: Cha Dourisboure về Pháp dưỡng bệnh, Cha Do ở Rơhai tạm thay quyền Bề trên và tạm kiêm phụ trách Kon Jơdreh.

Năm 1870, Cha Dourisboure về lại. Lúc đó bộ tộc Sêđăng kéo xuống đánh Đak Kâm và Rơhai, cướp của và bắt đi 5 người con gái làng Đak Kâm, định bán làm nô lệ cho người Jarai.

Cha Dourisboure nghe tin, đă sai người đi chuộc đem về làng Kon Jơdreh. 5 người đó đều ở lại làng Kon Jơdreh sinh sống và giữ đạo cho đến khi qua đời (x. Phaolô Ban và Simon Thiệt, Mở Đạo Kontum, nhà in Quinhon 1933, tr. 176).

Thời gian này, các Cha cho khai phá thêm vùng đất lập các nông trại mới: Cha Nguyên khai khẩn vùng đất tả ngạn sông Đăk Bla, gần suối Đak Kiă, lập nên làng Đak Kiă; Cha Do cho người nhà đến khai hoang lập làng nông trại Kon Mơnei (x. Phaolô Ban và Simon Thiệt, sđd, tr. 163 và 190). Số tín hữu người Thượng năm 1870 là 800 người, trong 6 địa sở: Rơhai, Kontum, Kon Jơdreh, Kontrang, Đak Kâm và Tơuer.

Tháng 11/1879, Cha Soubeyre (Nghiêm) đến Kon Jơdreh học tiếng và phụ tá Cha Dourisboure. Ngài thay thế khi Cha Dourisboure đi dưỡng bệnh năm 1880. Nhưng Cha Soubeyre đă qua đời tại đây ngày 11/07/1880, do sốt rét rừng.

Cha Chabas (Trinh) được bổ nhiệm đảm trách Kon Jơdreh năm 1881, ngài cũng không chịu nổi khí hậu khắc nghiệt miền rừng núi và cũng đă qua đời ngày 27/08/1882.

Năm 1882, Cha Geurlach (Cảnh) lên Miền truyền giáo Kontum và được chỉ định đến ở Kon Jơdreh thay Cha Chabas mới qua đời. Lúc ấy làng Kon Jơdreh có khoảng 260 tín hữu. Vừa đến nơi ngài đă hăng hái học tiếng, sau 3 tháng đă có thể giảng, giải tội, ban các bí tích...Cha Geurlach ra sức dạy dỗ, khuyên răn dân làng từ bỏ những tập tục không tốt, nhất là tục uống rượu say sưa, ngay cả trong ngày Chúa nhật và lễ trọng...Chính v́ điều này mà dân làng đem ḷng ghét ngài, thậm chí muốn đuổi ngài ra khỏi làng.

Thấy vậy, Cha Bề trên Vialleton (Truyền) bảo ngài tạm về ở tại Rơhai. Tuy nhiên v́ thương giáo dân, hàng tuần vào chiều thứ bảy, ngài băng rừng đi bộ về ở lại và dâng lễ Chúa nhật cho họ. Sau một thời gian thấy hơi nguôi, ngài về ở luôn và tiếp tục coi sóc họ đạo.

Người Thượng hay có tục chạy làng (dời làng), v́ nhiều lư do: chiến tranh, cháy nhà, mất mùa, dịch bệnh...,nguyên do phần nhiều là v́ tin dị đoan. Ban đầu Cha Guerlach hết sức khuyên nhủ, nhưng thấy vô hiệu, nên ngài bàn với dân làng đi đến chỗ gần suối Rơteng mà lập làng mới. Cả làng đồng ư và dọn đến ở đó. Cha Guerlach dựng nhà thờ, nhà xứ tạm để ở và dâng thánh lễ. Đến sau ngài thuê thợ dưới đồng bằng lên xây dựng nhà thờ rộng răi, khang trang hơn. về sau, Kon Jơdreh chia tách thành 2 làng: Kon Jơdreh Klah và Kon Jơdreh (năm 1922).

2. Giai đoạn Kon Jơdreh trực thuộc cứ điểm truyền giáo Kon Mơnei 1898-1956

Năm 1892, Cha Martial Jannin (Phước) lên vùng truyền giáo Kontum, được cử đến coi sóc Kon Jơdreh. Năm 1893, làng Kon Mơnei - bị nhiễm bệnh đậu mùa (cơn dịch năm 1893) đă trở lại đạo. Cha Jannin chuẩn bị ở đó một ngôi nhà thờ tạm. Vào năm 1895, 10 làng kế cận Kon Mơnei ṭng giáo, số giáo dân lúc này đă đạt tới 1.200 người. Cha cố gắng xây dựng tại mỗi nhiệm sở một nhà nguyện. Do Kon Mơnei nằm sát bên bờ sông Đak Bla, gần trung tâm Kontum hơn và đường dễ lưu thông hơn; nơi đây c̣n là nông trường do Cha Nguyễn Do đă khai phá,

ruộng đất ph́ nhiêu và đất nhà chung nhiều, chính v́ vậy các Thừa sai quyết định xây dựng Kon Mơnei thành cứ điểm truyền giáo mới cho toàn vùng. Kon Jơdreh trở thành họ đạo trực thuộc địa sở Kon Mơnei trong giai đoạn này.

Đến tháng 06/1898, Cha Louis Asseray (Nghị) được bổ nhiệm thay Cha Jannin phụ trách địa sở Kon Mơnei. Ngài củng cố họ đạo, dồn công sức dạy giáo lư cho các dự ṭng rất kỹ lưỡng, v́ biết công việc biến đổi tâm hồn của các dự ṭng không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.

Năm 1915, một thử thách đă xảy ra làm dao động đức tin c̣n non yếu của tín hữu. Trong lúc cha sở đi vắng, do tính bất cẩn của một gia đ́nh trong làng Kon Mơnei gây nên, một trận hỏa

hoạn khủng khiếp đă xảy ra thiêu rụi nhà thờ, nhà xứ và một nhà nuôi trẻ mồ côi, cùng với 40 ngôi nhà dân. Cha Aserray đón nhận thử thách này với sự nhẫn nại, và khi trở về ngài dựng một ngôi nhà tạm dùng làm nhà nguyện và nơi ở trong suốt vài năm. Trong khi đó ngài vận động để xây dựng lại ngôi nhà thờ mới, theo bản thiết kế của Cha Jannin (Phước), khởi công ngày 24/04/1918. Đến ngày 25/12/1919, cha sở và 700 giáo dân của địa sở vui mừng cử hành thánh lễ đầu tiên trong ngôi nhà thờ mới này.

Nhưng sức khỏe của Cha Asseray càng ngày càng giảm sút, nên đầu năm 1920, Bề trên đă gửi ngài xuống Qui Nhơn, sau đó về Pháp dưỡng bệnh, cho đến năm 1922. Trong quăng thời gian 2 năm (1920-1922), Cha Louison (cố Lui) vừa đến Kontum năm 1919 được cử đến tạm thay.

Quay trở lại Việt Nam, Cha Aserray tiếp tục làm việc tại nhiệm sở Kon Mơnei cho tới năm 1936, sức khỏe không cho phép tiếp tục trông coi họ đạo nữa, ngài được thuyên chuyển về làm linh hướng Chủng viện thừa sai Kontum, và qua đời vào ngày 21/03/1944.

Từ năm 1936-1940, địa sở Thánh Giuse Kon Mơnei bao gồm họ đạo Kon Jơdreh trực thuộc địa sở Kontum, do Cha Louison (cố Lui) phụ trách. Trong thời gian này c̣n có Cha đến giúp mục vụ: Cha Giuse Châu (Bahnar), Cha Antôn Den (Bahnar) 1939-1941, Cha Phêrô Dương Ngọc Đáng 1940-1941.

Từ năm 1941-1943, Cha Curien (Kim) được bổ nhiệm coi sóc địa sở Kon Mơnei, ngài vừa làm cha sở vừa làm giáo sư Chủng viện.

Giai đoạn này, t́nh h́nh sống đạo ở làng Kon Mơnei có phần sa sút, dân làng phần nhiều trở lại lối sống cũ. Năm 1943 có Cha G.B Thọ đến giúp một năm, ngài về ở tại làng Kon Jơdreh.

Nhận thấy dân làng Kon Mơnei thờ ơ với việc tham dự thánh lễ, năm 1943 Đức Cha Gioan Sion (Khâm) cử Cha Simon Nguyễn Diện đến đây. Ngôi nhà thờ Kon Mơnei sau đó được tháo dỡ di chuyển về dựng tại Xóm 4, thuộc Phương Nghĩa (ngày nay không c̣n).

Năm 1950, Cha Phêrô Dương Ngọc Đáng được bổ nhiệm phụ trách Kon Jơdreh. Cha Đáng đă dẫn dân làng qua bên này suối Jơdreh. Để tăng thêm hoa lợi cho họ đạo, Cha cho trồng vườn cà phê mít ở đầu làng Jơdreh.

III. THỜI KỲ CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO XỨ KON JƠDREH (1956-nay)

1. Giai đoạn tách khỏi địa sở Kon Mơnei và thành lập địa sở dộc lập 1956

Năm 1956 đánh dấu phục hồi và trưởng thành của cộng đoàn Kon Jơdreh. Cha Anrê Rannou (Rạng) được Đức Giám Mục bổ nhiệm chánh xứ Kon Jơdreh. Ngài khởi công xây dựng nhà thờ kiên cố, nhà xứ và trường học của làng. Thời gian này có Cha Bonnet (Quư) được gửi đến học tiếng tại Kon Bơbăn nhưng cư trú tại Kon Jơdreh, ngài cũng cộng tác với Cha Rannou trong công tác xây dựng và mục vụ. Năm 1959, sau khi hoàn thành nhà thờ và các công tŕnh, Cha Rannou được thuyên chuyển đi nơi khác và Cha Bonnet được bổ nhiệm phụ trách Kon Măh kiêm Kon Jơdreh và Kon Bơbăn. Thời gian này có Cha Deschamps (Đệ) ở nhà thờ Kontum cũng lên giúp mục vụ Kon Jơdreh khoảng 6 tháng.

Năm 1960, Cha Đaminh Đỗ Hữu Toán được bổ nhiệm chánh xứ Kon Jơdreh. Ngoài việc chăm lo về đức tin của cộng đoàn, Cha c̣n cho đào ao nuôi cá, đặt một nhà máy xay lúa (trước đây dân làng vẫn thường giă gạo)...Năm 1972, nhà thờ bị sập do bom đạn, các làng trong giáo xứ di dời về trung tâm Paradis, tức làng Kon Rơwang (gần cầu treo bây giờ), trực thuộc giáo xứ Chính ṭa. Lúc đó Paradis do Cha Đặng Văn Tú coi sóc. T́nh h́nh tạm ổn, giáo dân lại trở về nơi ở cũ.

Năm 1977, Cha Toán đau yếu và ngài qua đời vào ngày 27/04/1978. Giáo xứ Kon Jơdreh không có linh mục coi sóc. Giai đoạn này Cha Giacôbê Nguyễn Tấn Đường hoặc Cha Giuse Đỗ Hiệu ở TGM thay nhau lên giúp những dịp lễ lớn. Từ năm 1983, Kon Jơdreh trực thuộc giáo xứ Chính ṭa do Cha Giuse Nguyễn Thanh Liên coi sóc. Giáo dân tham dự thánh lễ và lănh nhận các bí tích tại nhà thờ Chính ṭa. Năm 1984, làng Kon Jơdreh được tách thành 5 làng: Kon Jơdreh, Kon Gur, Kon Ơxoch, Tơnget, Thông Uk.

2. Giai đoạn củng cố và phát triển 1996-nay

Năm 1996, Cha Gioakim Nguyễn Thúc nên được bổ nhiệm làm chánh xứ Kon Jơdreh. Ngôi nhà thờ Kon Jơdreh ở dưới gần ḍng sông, nước dâng cao rất nguy hiểm. Cha Nên mua đất chỗ cao ráo và xin phép chính quyền dời nhà thờ đến vị trí bây giờ. Năm 1997 khởi công xây dựng nhà thờ, xây vừa xong th́ bị cơn gió lốc thổi sập hoàn toàn. Cha lại bắt đầu vận động xây lại nhà thờ khác, trụ bê tông cốt thép kiên cố hơn. Thời điểm này giáo xứ có tất cả 12 làng. Những làng có nhà nguyện cha sở đều cho sửa sang lại. Ngài thường thăm viếng dâng lễ tại các nhà nguyện làng vào dịp lễ bổn mạng. Sau 8 năm phục vụ (1996-2004), Cha Gioakim đau yếu đi chữa bệnh, Cha Gioan Nguyễn Đức Trường đến giúp giáo xứ trong ṿng mấy tháng.

Từ 2004-2005: Cha Antôn Nguyễn Văn Binh được bổ nhiệm phụ trách Kon Jơdreh. Ngài đi đi về về TGM-Kon Jơdreh giúp mục vụ, ban bí tích cũng như điều hành giáo xứ.

Từ 2005-2010: Cha Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Quyền thay Cha Antôn Binh làm cha sở. Cha Vinhsơn ở tại chỗ chăm lo phát triển giáo xứ về mọi mặt. Ngài vận động giáo dân trồng cây cao su, mong cải tiến phương thức sản xuất nâng cao đời sống. Thời gian này: Xóm giáo người Kinh từ giáo xứ Vơ Lâm sáp nhập vào Kon Jơdreh, giáo xứ Kon Sơmluh tách khỏi Kon Jơdreh trở thành giáo xứ như thuở ban đầu (2006), và Kon Mơnei Sơlam tách ra sáp nhập về giáo xứ Chính ṭa (2010). Ở giáo xứ có một Trạm Xá (Trạm Xá Cố Cao/Cao Thượng) do anh em cựu chủng sinh Chủng viện TS Kontum (CVK) chung tay góp sức thành lập, làm phép đưa vào hoạt động ngày 14/05/2010). Trạm Xá khám chữa bệnh cho đồng bào các làng ở gần và vùng phụ cận như Kon Rẫy, Đak Đoa, Sa Thầy...

Từ 2010-2017: Từ ngày 04/12/2017 Cha Giacôbê Trần Tấn Việt làm linh mục chánh xứ.

Cha quan tâm đến giới trẻ, nhất là việc học giáo lư, xây dựng khuôn viên nhà thờ hài ḥa tạo điều kiện có nơi chỗ cho thiếu nhi học giáo lư và sinh hoạt. Năm 2014, cha cho xây một nhà đa năng cho việc sinh hoạt của giáo xứ. Tháng 09/2014 hoàn thành một nhà nội trú cho các em.

Cha đẩy mạnh công tác bác ái xă hội (giúp người nghèo, người đau yếu, người gặp tai nạn...) không những tại giáo xứ Kon Jơdreh mà c̣n trong vùng lân cận. Năm 2011, có cha Phêrô Thế (ḍng Đaminh) hiện diện giúp giáo xứ trong việc cử hành các bí tích, đào tạo giáo lư viên.v.v.

Từ 2017- nay: Ngày 18/07/2017, ĐGM giáo phận dâng thánh lễ bổ nhiệm Cha Phaolô Nguyễn Hùng Sơn làm linh mục chánh xứ Kon Jơdreh. Cha Phaolô tiếp tục củng cố giáo xứ về mọi mặt, đưa giáo xứ đi lên từng ngày qua đời sống đức tin sống động của cộng đoàn, cũng như hoàn thiện các cơ sở tại giáo xứ phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng.

Hiện nay giáo xứ có tổng cộng 6.564 giáo dân. Trong đó số giáo dân Thượng: 6.134 người (Bahnar: 5.122 giáo dân, Rơngao: 701 giáo dân, Sêđăng: 113 giáo dân; Số giáo dân Kinh: 430 người.

* Các Chú Yao Phu: Trải qua quá tŕnh h́nh thành và phát triển lâu dài, giáo xứ Kon Jơdreh được nhiều chú Yao Phu nhiệt thành cộng tác: chú Yăp, chú Tar, chú Phyinh, chú Guơn, chú Khen (trường Kuenot); các chú Thuin, Ơu, Khang, Ping, Xuân, Tyiu; các chú mới được đào tạo tại TGM: Đaminh Phưk, Giuse Pran, Tôma Khi (2012).v.v

_______________________

Tài liệu tham khảo:

1/Dân Làng Hồ, P. Dourisboure, bản dịch của TGM Kontum, NXB Đà Nẵng 2008.

2/Mở Đạo Kontum, P. ban và S. Thiệt, Nhà in Quinhon 5.1933.

3/Tài liệu lịch sử tại giáo xứ Kon Jơdreh, 2015.

 

 

 

 

WGPKT(04/09/2021) KONTUM

Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com 


H́nh ảnh nhà thờ Giáo xứ KON JƠDREH

< chưa có >

Chi tiết - h́nh ảnh bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com