
Lược
sử Giáo xứ Tân Điền
“Có những hạt lúa
rơi vào đất tốt,
nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm,
hạt được sáu chục, hạt được ba chục.”
(Mt 13, 8).

Nhà thờ Tân Điền
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
MỘT VÙNG ĐẤT: RUỘNG LÀO
Từ xa xưa, Tây Nguyên là vùng đệm, một
thời là nơi giao tranh giữa các bộ tộc. Do địa h́nh và chủng tộc,
người Lào đă có quan hệ lâu đời và sâu với các dân tộc ở Tây Nguyên:
Bản Đôn ở Đăk Lăk, Mường Hon ở
cụm núi Ngok Linh...đến ngày nay c̣n mang nhiều dấu vết của Lào.
Vùng đất Tân Điền thuộc xă Đoàn Kết
nằm ở phía tây nam của thành phố Kontum, từ xa
xưa đă có quan hệ khá mật thiết với
người Lào. Cánh đồng Hà-Ghẹt[1], cánh đồng lớn nhất của
tỉnh Kontum, nằm cách thành phố
Kontum 5 km thuộc thôn 5 xă Đoàn Kết, hiện nay vẫn c̣n
vết tích những “ụ g̣ mối” được cho là
“mồ mả xưa” mà người dân nơi đây gọi là “Mả Lào”; hoặc trong lúc cày
ruộng người dân đă phát hiện nhiều hiện vật như “ghè Lào”, “ché Lào”,
những “xâu hạt cườm” vốn là đồ
trang sức của cư dân Lào xưa.v.v. ; hay trong các buôn làng
người dân tộc trong vùng trước đây
từng lưu giữ nhiều bộ chiêng Lào...
Đây có thể là một làng người Lào đến
định cư đă lâu đời trong vùng b́nh nguyên rộng lớn
này, cũng có thể là vết tích của những
người Lào chạy dạt vào đây do hệ quả của các cuộc chiến
tranh bộ lạc ngày xưa...[2]
Tập quán lâu đời của người Lào là canh
tác lúa nước. Có thể họ cũng đă từng khai phá lợi
thế của vùng đất trũng này để làm
ruộng.
Cánh đồng Hà-Ghẹt,
thôn 5, xă Đoàn Kết
và Xóm giáo thuộc
giáo xứ Tân Điền ngày nay
Đến nửa sau thế kỷ thứ 19, khi người
Pháp lập lên chế độ bảo hộ trên toàn vùng phía đông
sông Mê Kông, đă thực hiện một số sửa
đổi và định ra một số luật lệ về biên giới giữa Lào và
Việt Nam, người Lào đă rời vùng này đi
về phía Tây dăy Trường Sơn định cư như ngày nay.
Về sau, khi cư dân đến khai phá và
sinh sống nơi vùng đất này, họ thường gọi nơi đây là “Ruộng Lào”.
II. THỜI KỲ SƠ KHAI
Khi các cơ sở công giáo đầu tiên đă
được cha Do và các vị thừa sai thiết lập trên Miền
Kontum, những tín hữu người Kinh từ
miền xuôi theo chân các ngài lên Kontum làm ăn sinh
sống đă đến cư ngụ tại làng G̣ Mít (Tân
Hương ngày nay). Những cư dân này đă khám phá ra
vùng đất Ruộng Lào, lúc bấy giờ chỉ là
một đồng cỏ hoang dại. Mùa nắng, ngoài những vùng
trũng śnh lầy cỏ xanh quanh năm, c̣n
lại th́ cỏ khô héo, đất nứt nẻ. Nhưng về mùa mưa nước
ngập trắng đồng, chim cá sinh sôi phát
triển nhiều vô kể. Điều kiện thiên nhiên ưu đăi rất dồi
dào, cùng với sự thích hợp cho việc
canh tác lúa nước nên một số người đă cùng nhau đến đây
khai khẩn và lập cḥi cư ngụ.
Năm 1871, linh mục Phêrô Nguyên ở
trung tâm Rơhai (G̣ Mít-Tân Hương) đă qua bên kia
sông Dak Bla lập làng Dak Kiă gần con
suối Dak Kiă giáp ranh với Tân Điền ngày nay. Trong
vài năm, làng Dak Kiă trở nên hưng
thịnh nhờ những cánh đồng tươi tốt màu mỡ, dễ canh tác.
Cha Nguyên đă làm nhà thờ cao ráo rộng
răi, nhà xứ và lán trại...Đến năm 1877, cha Nguyên theo lệnh Bề trên
phải trở về phụ trách trung tâm Rơhai (Tân Hương), nên dần dần làng
Dak Kiă tan ră [3].
Nhưng một số người vẫn trụ lại, cộng với số dân mới đến định cư đă
lập nên làng Phương Ḥa (1892).
Dân làng Phương Ḥa đă đi vào sâu trong hướng phía tây để khai
khẩn đất đai làm ruộng nước: “Làng
Phương Ḥa bên kia sông Đăk Bla gần Kontum bây giờ
nhân số hơn 300 người; làng này xưa
vốn là người Tân Hương theo cha Nicolas (Cận) qua lập đó cho dễ làm
ruộng, v́ bên trong có nhiều cánh đồng śnh lầy rộng và tốt dễ khai
phá ruộng; đến sau người
ta đến thêm lần lần, và sau này chắc sẽ đông hơn”[4].
Năm 1903, họ đạo Phương Ḥa được thành
lập trực thuộc trung tâm Rơhai (Tân Hương), do cha Nicolas Cận (MEP)
coi sóc[5]. Cha Nicolas đă đưa thêm giáo dân sang vùng này,
cộng với số di dân từ Quảng
Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định lên lập nghiệp, nên số giáo dân trong
vùng ngày một tăng thêm.
Để thuận tiện cho công việc đồng áng,
một số giáo dân vào canh tác tại Ruộng Lào đă dựng
cḥi ở lại. Những Kitô hữu này thường
qui tụ đọc kinh tối với nhau, nên đă cùng nhau dựng nên
một nhà nguyện nhỏ bằng tranh nứa,
trên một vị trí cao ráo, bao quát, chính giữa các trang trại.
Vị trí nhà nguyện đầu tiên này nằm
trong khu vực trường Trung học Cơ sở Nguyễn Bỉnh
Khiêm, thuộc thôn 5, xă Đoàn Kết hiện
nay [6].
Năm 1921, họ đạo Phương Ḥa được nâng
lên thành giáo xứ với cha sở tiên khởi là cha
Phêrô Irigoyen (Hương) [7], Ruộng Lào
lúc bấy giờ đă được công nhận là một xóm đạo trực
thuộc giáo xứ Phương Ḥa. Số giáo dân
lúc ấy khoảng độ dăm ba chục người.
III. THÀNH LẬP HỌ
ĐẠO RUỘNG LÀO 1933
Năm 1933 đă ghi dấu mốc quan trọng đối
với cộng đoàn tín hữu Ruộng Lào: Họ đạo Ruộng
Lào được thành lập, thuộc địa sở
Phương Ḥa, do cha Irigoyen (Hương) phụ trách [8]. Lúc này
Họ Ruộng Lào đă có Ban chức
việc hoàn chỉnh với ông Câu họ và quí ông Biện. Quí chức việc
thời kỳ đầu có ông Câu Trần Tính (tức
ông câu Hai), về sau có ông Câu Phạm Nhơn (c̣n gọi
Câu Thuận hay câu Câu Đàn).v.v.
Ngày 21/04/1935, cha Irigoyen qua đời
sau 14 năm phục vụ địa sở. Đức Giám mục đă bổ
nhiệm cha Phêrô Trần Ngọc Thích tiếp
nối coi sóc địa sở Phương Ḥa, bao gồm họ Ruộng Lào,
Plei Hơnor, Plei Rơhai, Plei Groi và
Kon Hara Kơtu. Tổng số tín hữu người Kinh cả Phương
Ḥa và Ruộng Lào vào năm 1936 là 517
người[9].
IV. THỜI KỲ PHÁT
TRIỂN: HỌ ĐẠO TÂN ĐIỀN
Thập niên 1940 trở đi là thời kỳ phát
triển cả về tôn giáo lẫn hành chính.
Từ năm 1942 đến 1949, họ Ruộng Lào lúc
bấy giờ đă có thêm khoảng 20 giáo dân trưởng
thành của 5 gia đ́nh từ làng Phụng Sơn
về gia nhập[10], cùng với số người công giáo từ miền
đồng bằng lên lập nghiệp nên số lượng
tín hữu trong họ đạo đă tăng lên. Năm 1948, số giáo dân
họ Ruộng Lào là 174 người[11].
Họ đạo có thêm cha Micae Hiâu (Hóa), linh mục người
Bahnar, đến phụ tá (1946-1949). Do nhu
cầu tôn giáo, cha Phêrô Thích đă cho phá dỡ nhà
nguyện cũ, di dời về vị trí bây giờ và
dựng lên một nhà thờ mới lát ván rầm, rộng 8 mét, dài 15
mét. Đồng thời ngài cũng dựng lên một
nhà xứ (ngày xưa quen gọi là nhà vuông). Ngôi nhà thờ
mới này được thánh hiến vào năm 1950,
chọn Thánh Cả Giuse làm tước hiệu của Nhà thờ, cũng
là thánh bổn mạng của họ đạo, lễ mừng
vào ngày 19/03 hằng năm.
Về hành chính, dân chúng đă làm nhà cư
ngụ rộng khắp các khu vực trong làng Tân Điền,
trải dài từ cánh đồng Hà-Ghẹt vào đến
tận Dốc Xă Cảnh (đường vào xă Ia Chim). Đầu thập niên 1950, ấp Tân
Điền được thành lập, thuộc xă Phương Ḥa. Họ Ruộng Lào từ đây cũng
được gọi là họ Tân Điền, theo
tên gọi hành chính của ấp Tân Điền thời đó.
Cũng trong năm 1950, Đức Giám mục đă
bổ nhiệm cha Antôn Nguyễn Đ́nh Nghĩa đến phụ
trách họ đạo Ruộng Lào[12]. Như
vậy, cùng với việc khánh thành ngôi nhà thờ mới, chọn thánh
bổn mạng mới là Thánh Cả Giuse (bổn
mạng cũ theo địa sở Phương Ḥa là Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội) và có linh mục riêng biệt
phụ trách, họ đạo Tân Điền trên thực tế đă trở thành một
Chuẩn Giáo xứ[13].
Năm 1952, Đức Giám mục đă cử cha Phêrô
Dương Ngọc Đáng về giáo xứ Tân Điền để nghỉ
dưỡng và lo mục vụ, thay cha Antôn
Nguyễn Đ́nh Nghĩa được thuyên chuyển đi nơi khác. Để chăm lo việc
học hành của con em trong làng, cha Phêrô Đáng đă cho dựng lên một
ngôi trường sơ cấp gồm hai gian
bằng gỗ cà chít, mái lợp ngói và nền lát gạch. Đây là ngôi trường
học đầu tiên của Tân Điền, được
dựng trong khuôn viên đất của nhà thờ. Việc dạy học được tổ chức học
theo kiểu “lớp ghép” (học sinh
ít nên nhiều lớp cùng học chung một lúc và chỉ có một thầy
dạy). Giáo viên được cha mời từ nơi
khác đến, và học phí do phụ huynh đóng góp.
Mọi việc đang trên đà tiến triển th́
ngày 05/09/1960, Cha già Phêrô Dương Ngọc Đáng đă
ra đi trong sự tiếc thương của cộng
đoàn tín hữu của ngài.
Từ thời gian này, họ đạo Tân Điền lại
bước sang một khúc quanh mới, trong nỗ lực vươn
lên sống và làm chứng Tin Mừng Chúa
Kitô, hướng đến tương lai.
V. HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG
LAI
Sau khi cha sở Phêrô Dương Dương Ngọc
Đáng qua đời, họ đạo Tân Điền không có cha sở
phụ trách riêng, nên trở lại thuộc
quyền quản trị của cha sở Phương Ḥa.
+Giai đoạn 1960-1967, họ đạo được Cha
Gioakim Chế Nguyên Khoa coi sóc.
+Từ 1967-1969, cha Gioakim Nguyễn Thúc
Nên phụ trách. Cha Gioakim Nguyễn Thúc
Nên đă tiến hành xây dựng ngôi nhà thờ
Tân Điền thứ 2, thừa kế nét gỗ của nhà thờ cũ do cha Phêrô Dương
Ngọc Đáng dựng trước kia, và bản vẽ do Gioakim Chế Nguyên Khoa để
lại. Kết cấu khung sườn nhà thờ
bằng gỗ, mái đóng rui, mè và lợp ngói vảy. Ngôi nhà thờ được làm
theo kiểu h́nh thánh giá, có
hai cánh hai bên. Công tŕnh chưa hoàn thành th́ cha Gioakim
Nguyễn Thúc Nên được thuyên chuyền đi
nơi khác.
+Cha Giuse Trần Trí Tuệ đến phụ trách
giáo xứ từ năm 1969-1983. Vừa nhận nhiệm sở, cha
cùng với giáo dân tiếp tục hoàn thiện
ngôi nhà thờ đang c̣n dang dở. Cha Giuse cho đóng bàn
thờ mới, chuộc một tượng Thánh Giuse
đặt trên máng thượng trước tiền đường nhà thờ và đặt
mua một chiếc chuông đồng từ Sài G̣n
về để sử dụng cho đến ngày nay. Và cũng từ đó, lệ kéo
chuông báo tử trong họ đạo được thực
hiện và duy tŕ cho đến bây giờ. Ngôi nhà thờ đă được
Đức Cha Phaolô Seitz (Kim) làm phép
thánh hiến vào năm 1970. Ngoài ra, cha c̣n dựng một
cây Thánh Giá bằng gỗ cà-chít rục (chết
khô) cổ thụ, đường kính hơn 1m, cao khoảng 25 mét
trong khuôn viên nhà thờ. Vào những
ngày lễ lớn cha cho treo cờ Ṭa Thánh trên đỉnh, cả một
vùng đều nh́n thấy rơ, trông rất uy
nghi.
Những năm sau 1975 là những năm cực kỳ
gian khó. Linh mục bị hạn chế đi lại. Mặc dù cha Giuse Trần Trí Tuệ
t́m mọi cách để chăm sóc đoàn chiên Tân Điền, nhưng do hoàn cảnh,
cộng đoàn tín hữu vẫn c̣n gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhiều
“tông đồ giáo dân” đă không
quản ngại khó khăn gian khổ cộng tác với chủ chăn trong công việc
mục vụ giai đoạn này. Để ngôi
nhà thờ được tồn tại, một số giáo dân nhiệt thành đă duy tŕ việc
đọc kinh tối thường xuyên ở nhà
thờ và luôn giữ vững nề nếp phụng vụ trong giáo xứ.
+Năm 1983, Cha Simon Phan Văn B́nh
được bổ nhiệm chính xứ Phương Ḥa kiêm Tân
Điền (1983-1997). Sau nhiều năm thiếu
bóng linh mục, ngôi Thánh Đường cũng đă xuống cấp
trầm trọng. Cha Simon và quư chức việc
phải đóng cọc lơi kè nền móng và giăng giữ các vách
khỏi bị đổ sập.Cha Simon cũng đă tái
tạo lại khuôn viên nhà thờ bằng một màu xanh hoa viên.
+Giai đoạn 1997-2010, cha Giuse Đỗ
Hiệu được bổ nhiệm chính xứ Phương Ḥa thay cha Simon Phan Văn B́nh.
Cha sở Giuse Đỗ Hiệu đă quan tâm lo lắng cả về đời sống tinh thần
lẫn cơ sở vật chất cho giáo xứ.
Cầu nguyện và đời sống nội tâm được cha chú trọng đặc biệt. Vừa
nhận nhiệm sở, cha đă băi bỏ
ngay thói quen tổ chức ăn uống tốn kém nơi nhà tang vốn đă
thành lệ trói buộc giáo hữu xưa nay.
Cha tổ chức tĩnh tâm cho các giới, cổ vơ tôn kính Ḷng
Chúa Thương Xót...Vào ngày 24/07/1998,
cha đă tiến hành khởi công xây dựng ngôi nhà thờ
mới (nhà thờ thứ 3 hiện nay). Sau 8
tháng thi công, ngày 19/03/1999, giáo xứ Tân Điền đă hân
hoan đón chào ĐGM Giáo phận Phêrô Trần
Thanh Chung cùng với 24 Linh mục về đồng tế
thánh hiến ngôi nhà thờ mới. Cha Giuse
cũng đă xây dựng Nhà xứ, 2 dăy nhà giáo lư và một
nhà kho, khởi công ngày 12/01/2009,
khánh thành ngày 08/11/2009.
Sau 13 năm tận tụy phục vụ giáo xứ,
đến ngày 28/11/2010, cha Giuse Đỗ Hiệu được thuyên
chuyển đến giáo xứ Tân Hương.
+Cha Luy Nguyễn Quang Vinh được bổ
nhiệm về địa sở Phương Ḥa, tiếp tục coi sóc giáo
xứ Tân Điền từ 28/11/2010.
Cha Luy Vinh đă kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức sẵn có của giáo xứ, khéo léo kết
hợp giữa giáo dục đạo đức và nâng cao
tŕnh độ tri thức cho giáo dân.
Ngày 06/10/2015, Cha Giuse Đinh Quốc
Trụ, OFM được bổ nhiệm phụ tá giáo xứ Tân
Điền.
Và ngày 23/01/2016, tại Nhà thờ Giáo
xứ Tân Điền, Đức cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị,
Giám Mục Giáo Phận Kontum đă chủ tế
thánh lễ bổ nhiệm Linh mục Giuse Đinh Quốc Trụ làm cha sở Giáo xứ
Tân Điền, kiêm nhiệm Giáo xứ Đăk Kia, thuộc giáo hạt Kontum.
VI. VÀI NÉT VỀ GIÁO
XỨ TÂN ĐIỀN HIỆN NAY
Ranh giới giáo xứ Tân Điền hiện nay
gói gọn trong xă Đoàn Kết, thuộc Thành phố Kontum,
có trục Tỉnh lộ 671 chạy qua xă Đoàn
Kết và xă Ia Chim và các đường giao thông liên thôn, tiếp
giáp với 01 phường và 05 xă: phía đông
giáp phường Nguyễn Trăi (giáo xứ Phương Ḥa), phía
nam giáp xă Ḥa B́nh (giáo xứ Trung
Nghĩa), phía tây giáp xă Ia Chim và xă Đăk Năng (giáo
xứ Plei Jơdrâp...), phía bắc giáp xă
Ngọc Bay và Vinh Quang (bên này sông). Xă đoàn Kết là
một xă thuần nông, người dân sống chủ
yếu bằng nông nghiệp chiếm tỷ lệ 98%, c̣n lại một số
hộ buôn bán nhỏ lẻ, hàng năm số người
từ địa phương khác đến tạm trú làm ăn theo thời vụ rất
đông. Hiện nay giáo xứ Tân Điền có 5
Xóm giáo thuộc các thôn 5, 6 và 7 của xă Đoàn Kết[14] và Xóm
giáo Stêphanô thuộc Ia Chim:
-Xóm giáo Mân Côi (thôn 5)
-Xóm giáo La Vang (thôn 5)
-Xóm giáo Fatima (thôn 6)
-Xóm giáo Lộ Đức (thôn 7)
-Xóm giáo Stêphanô (Ia Chim)
Tổng số giáo dân khoảng 2.100 người.
Ngoài ra c̣n có làng dân tộc Plei
H’nor[15] (hướng gần Ia Chim) thời gian trước đây cũng
về nhà thờ Tân Điền để được chăm sóc
mục vụ.
Quí chức việc qua các thời kỳ có các
vị như:
Ông câu Trần Tính (Câu Hai), thời kỳ
đầu ; Ông câu Phạm Nhơn (câu
Thuận hay câu Đàn) làm việc rất lâu, măi đến thời cha Gioakim
Nguyễn Thúc Nên ;
Các ông biện như biện Thiên, biện Bảo,
biện Tuệ...
Các ông câu Nguyễn Chánh ; quư ông
biện Ngô Đ́nh Quyền, Nguyễn Văn Nhanh, Phạm
Trung Kỳ.v.v.
Trải qua bao thăng trầm, cộng đoàn
giáo xứ vẫn giữ vững đức tin, sống chứng tá Tin Mừng
và làm triển nở hạt giống Lời Chúa
trên mảnh đất thấm đượm mồ hôi nước mắt của bao thế hệ
chủ chăn và tín hữu. Nếu như thuở sơ
khai chỉ với vài ba giáo dân đến khai khẩn lập cḥi nơi
vùng đất Ruộng Lào xưa kia, trải qua
hành tŕnh đức tin lâu dài can trường và sống động, giáo
xứ Tân Điền ngày nay đă đạt đến con số
2500 tín hữu (năm 2020). Đó thật sự là một hồng ân
cao quí Chúa đă ban cho giáo xứ! Nhờ
lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse, cộng đoàn giáo xứ tin tưởng Thiên
Chúa sẽ ân ban một mùa gặt dồi dào trên “cánh đồng ruộng mới”- Giáo
xứ Tân Điền, ngay hôm nay và
trong suốt hành tŕnh tương lai.
_______________________
CHÚ THÍCH:
[1] Cũng có khi viết là Hà-Gặt. Tuy
nhiên theo những bản đồ điền thổ thời Pháp thuộc về vùng đất
này c̣n lưu giữ tại các gia đ́nh ở Tân
Điền, đều ghi là Hà-Ghẹt. Ngoài ra trong vùng Tân Điền-Ia
Chim c̣n có các địa danh như Hà Dul,
Hà Giay, Hà Măt, Ba Voi.v.v.
[2] Sự tích “Ruộng Lào” c̣n được gắn
với truyền thuyết về một câu chuyện t́nh được nhiều thế hệ
người dân nơi đây biết đến: Câu chuyện
t́nh đẹp và buồn giữa nàng Brai con của tộc trưởng Lào và
chàng trai J’Lưng dân tộc Bahnar sống
ở thượng nguồn sông Dak Bla...Sau khi nàng Brai không
thuyết phục được chàng J’Lưng, nàng
quay trở về và từ đó bị ốm và chết trong sự buồn bă nhớ
nhung...(x. “Như lạc vào chốn xưa”,
Tường Lam, www.kontum.gov.vn).
[3] x. Cha Ban và Cha Thiệt, Kể sự cha
Nguyên lập làng Dak Kiă, “Mở Đạo Kontum”, Nhà in Qui
Nhơn 1933 tr.189-190.
[4] x. Cha Ban và Cha Thiệt, sđd
tr.234.
[5] x. Echos de la Mission, Địa phận
Kontum, số tháng 2-3-4/1948, tr.5.
[6] Theo lời kể của các vị bô lăo tại
Tân Điền 8/2013 (x.Vài nét về giáo xứ Tân Điển, Philip Phương,
gx Tân Điền 2013).
[7] x. Echos de la Mission, sđd, tr.5.
[8] x. Echos de la Mission, sđd, tr.5.
.[9] x. La Mission des Pays Mois en
1937.
[10] Làng Phụng Sơn do cha Simon
Nguyễn Diện lập năm 1924 ở vùng gần Ia Ly, gốc cũng bởi
người Tân Hương và Phương Ḥa. Tuy
nhiên làng không phát triển, và một số đă quay lại gia nhập
vào các làng khác.
[11] x. Echos năm 1949, tr.6.
[12] Cha Antôn Nguyễn Đ́nh Nghĩa đang
dạy học tại Tiểu Chủng viện Thừa sai Kontum đă đến giúp
mục vụ từ cuối năm 1949 (x. Tiểu sử
cha Antôn Nguyễn Đ́nh Nghĩa)
[13] Họ đạo Tân Điền cho đến 1975 vẫn
chưa ghi tên là Giáo xứ trong sổ bộ của Giáo phận (x. Lịch
Công giáo Gp Kontum các năm).
[14] Xă Đoàn Kết trước đây có tất cả 7
thôn (từ 1 đến 7). Từ khi chia tách Phường Nguyễn Trăi, xă
Đoàn kết chỉ c̣n lại các thôn 5, 6 và
7 (các thôn 1, 2, 3, 4 thuộc Phường Nguyễn Trăi).
[15] Làng Plei H’nor nguyên ngày xưa ở
cạnh con suối H’nor, đầu làng Phương Ḥa (vị trí sân banh
cũ). Làng H’nor ṭng giáo năm 1900 và
trực thuộc Trung tâm Rơhai (Tân Hương), đến năm 1921
thuộc địa sở Phương Ḥa (x. Echos
tháng 2-3-4/1948, tr.5). Khoảng trước năm 1975, Plei H’nor đă di
dời vào xă Đoàn Kết vị trí hiện
nay (gần Ia Chim).
Nguồn : Web
site GP Kontum
Xem thêm
[ Lược
sử Giáo xứ Tân Điền ]
( Phêrô Minh Sơn )
Nguồn :
Website Đức Mẹ Măng Đen
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|