
Lược
sử Giáo xứ Cây Vông
1. Vị trí địa lư
Nằm trong phạm vi hai xă Diên Sơn và Diên Thuỷ, cực bắc Huyện
hành chánh Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà. Giáo xứ Cây Vông một thắng
cảnh hữu t́nh chạy dọc dài 2 km hai bên tỉnh lộ 8, tả ngạn sông cái
với khu Giáo đường khang trang ở trung tâm. Đàng trưóc thánh đường,
xa xa con sông cái hiền hoà uốn khúc tiếp cận đồng lúa Đồng Hiền
tươi tốt hai mùa. Đàng sau, bát ngát cánh đồng Đại Điền trù phú bao
quanh va dăy Đại An, Ḥn Ngang hùng vĩ chạy dài từ đông sang tây che
chở.
Đông giáp Giáo xứ Đại Điền (từ Cầu Gỗ đến Quán Đôi đường cái đá,
và từ trường học Phú Điền đến nhà thờ họ Ngô, ranh giới Diên Điền và
Diên Sơn). Tây giáp Giáo xứ Đồng Dài (Ḥn Ngang). Nam giáp Giáo xứ
Hà Dừa (Sông Cái). Bắc giáp Núi Am Chúa (Diên Sơn 1, Đại Điền Nam).
Gồm Xă Diên Thuỷ, Diên Sơn 2, và một phần Thị Trấn Diên Khánh.
2. H́nh thành và phát triển
Theo cuốn lịch sử truyền giáo Nam bộ (Histore de la Mission de
Cochinchine, 1658-1823) của Linh mục Adrien Launay thuộc các ḍng
thừa sai Bale (MEP) th́ vào ngày 11.06.1730 Linh mục Gouge, trong
thư viết cho Linh mục M.X (một Lm bạn) Ngài nói ngay từ tháng 3.1730
nhân ngày lễ Chúa Giêsu Thăng thiêng và lễ Chúa Thánh Thần hiện
xuống, Ngài đă tới thăm hai giáo xứ Hà Dừa và Nhà Gai và Ngài đă ở
lại đó 3-4 ngày. (nhà Gai hay Ḷ Gai là tên địa điểm cũ của Cây vông
cách thánh đường hiện tại chừng vài ba cây số về hướng tây).

Trong cuốn nhật kư của Linh mục Flopy, thừa sai người Pháp, Ngài
viết: "Ngày 16.4.1731 Linh mục cho nhà phước 12 quan tiền để cứ mỗi
tháng giao cho họ là 1 quan và khu vườn nơi có nhà thờ nhà Gai, do
Đức Cố Giám Mục Tilopolis đă mua. C̣n tiền mua nhà th́ giáo dân trả
một nửa. Linh mục Gouge đă cho họ 20.000 đ. Và Linh mục Flopy cho
5.000đ.
Vào những ngày 21-24.9.1740, các Linh mục thừa sai trở lại thăm
ba giáo xứ Hà Dừa, Nhà Gai và Vũ Cang (B́nh Cang) ngày 23.9.thăm nhà
Gai. Về nhà thờ Nhà Gai sách có ghi: nhà thờ Nhà Gai đă được xây
dựng do lệnh và công lao của Cha Gouge. Nhà thờ nhà Gai được dâng
hiến cho Thánh Phêrô tông đồ. Lúc bấy giờ đă có 6 thầy giảng, có
kinh nghiệm làm việc rất tốt.
Ngày 10.8.1747 Linh mục Bennetat viết thư cho Linh mục G.B Maigre.
Trong thư ngài kể lại việc Ngài trở lại Nha Trang và đi ban bí tích
cho các xứ trong mùa chay năm 1747. Ngài viết "tuy tôi mới trở về
Nha Trang, th́ ngay ngày hôm sau, tôi lên thăm nhà thờ Nhà Gai. Nhà
thờ này cách xa chỗ tôi ở (Nha Trang) chừng non nữa ngày đàng. Ở đấy
giáo dân đang chờ tôi để hoà giải cho một vài gia đ́nh. Tôi giải
quyết xong các việc tranh chấp của họ và làm cho mọi người nhất trí
với nhau, tuy mới đầu họ làm cho tôi thấy khó mà làm cho họ vừa ḷng.
Trong ṿng 6 ngày, tôi ban bí tích cho giáo dân xứ này: có cả thay
130 người xưng tội, 110 người chịu lễ,12 người rửa tội, trong số đó
có 2 người lớn. Tôi cũng chứng hôn cho 3 đôi vợ chồng và ban bí tích
Xức Dầu cho 3,4 bệnh nhân và vài ngày sau họ qua đời,. Phần lớn giáo
dân trong xứ này càng ngày họ càng thêm ḷng đạo đức sốt sắng.
Lịch sử cận đại:
Trên đây là vài ḍng lịch sử cách đây gần 300 năm, cho thấy giáo
xứ Cây Vông là một trong các giáo xứ kỳ cựu nhất của vùng Nha Trang,
được h́nh thành cùng một thời gian với Hà Dừa, B́nh Cang. mà thánh
đường và khu vườn của Nhà Gai là do Cố Giám Mục Tilopolis và các
Linh mục thừa sai người Pháp cùng với sự đóng góp của giáo dân đă
mua từ những năm 1730. Nhà Gai, Hà Gai, Nà Gai hay Ḷ Gai nằm trên
khu đất tục danh xứ Tiên Hương, thuộc thôn Phú cốt trên bờ tả ngạn
sông cái, xây mặt vào núi Ḥn Ngang. Di tích nền thánh đường, nghĩa
địa hiện nay vẫn c̣n và gần đó mấy sào đất thổ là tài sản của giáo
xứ.Lúc bấy giờ chưa có cha sở.
Năm Tự Đức ngũ niên 1851, sắc chỉ triều đ́nh cấm đạo, giáo dân
chạy tản mác. Nhà thờ bị đốt phá b́nh địa. Thời gian sau, t́nh h́nh
lắng dịu, giáo dân tề tựu về xây cất lại thánh đường ở thôn Đại Điền
Tây, trên vùng đất của Ông Nguyễn Nay, bấy giờ do Cha Lăo làm cha sở
tiên khởi.
Năm Văn Thân nổi lên chống Pháp, Đồng thời bách hại Công giáo,
trong khi cố Minh Ganier lănh đạo giáo dân Hà Dừa di tản vào Sài G̣n
th́ giáo dân Cây Vông một số lánh nạn ngoài Ḥn Khói (Ninh Hoà) Tu
Bông (Vạn Giă) hoặc đón tàu đi Quinhơn, một số c̣n lại theo Cha Lăo
lẫn trốn trên núi Ḥn Ngang hay chạy trốn trong nhà người lương ở
thôn Đại Điền Nam ngày đêm núp trong mái (loại lu lớn) dùng chứa
đường, bỏ trống. Thánh đường lại bị đốt phá. Việc tiếp tế cho cha
Lăo và các chức việc trên núi thật gây go, nguy hiểm. Lúc đầu giáo
dân c̣n đưa cơm trong ống tre, sau hết gạo, phải lấy trấu rang
nghiền nát bỏ vào ống tre đưa lên cho Ngài nấu cháo ăn với lá cây và
thịt rừng. Chúa quan pḥng sắp đặt, trong thời gian lẫn trốn trên
núi. Cha và các chức việc được ăn thịt hươu nai do cọp beo bắt an bỏ
dở.Khi tạm yên, cha con tề tựu nhau về chung nhau xây cất thánh
đường mới trên khu đất hiện nay. Cha Lăo đă qua đời và được an táng
trong thánh đường. Cũng từ đó, Cây Vông không c̣n cha sở nữa, giáo
dân phải đi dự lễ khi ở B́nh Cang, khi ở Hà Dừa, (đời Cố Ngoan và cố
B́nh) hoạ hoằn mới có một Cha về dâng Thánh lễ chúa Nhật một lần.
Măi đến năm 1910, cố Quới được thuyên chuyển về hà Dừa, luân phiên
một tuần ở Hà Dừa, một tuần ở Cây Vông, giáo dân mới được thường
xuyên dự lễ. Cố Quới coi sóc Hà Dừa, kiêm cả Cây vông và Đại Điền.
Ngài qua đời năm 1924

Trận cuồng phong năm nhâm tư 1912 tàn phá khốc liệt Khánh Hoà, đă
làm sập đỗ ngôi thánh đường. Đến năm 1913, cố Quới cho xây cất lại
đồ sộ hơn, cột kèo, bàn thờ được chạm trổ tinh vi, tồn tại đến ngày
nay.
Băo năm nhâm tuất 1922 làm hư tiền đựng và măi đến 1939, Cha
Stêphanô Phan văn Bính, với sụ cộng tác đắc lực của chức việc và
giáo dân, nhất là ông câu nh́ Nguyễn Điểu (vẽ kiểu và đôn đốc) đă
trùng tu lại tiền đường, có tháp chuông kiên cố, song phải đợi đến
năm 1952, tháp chuông mới có chuông, do ông Antôn Nguyễn Lâu (đệ tử
cố Quới) dâng cúng.
Năm 1938, Cố Quư (P.Tourte) đến làm cha sở trong ṿng 6 tháng.
Chính Ngài tự tay cưa đục, sửa chữa lại bàn thờ gọn gàng hơn.
Năm 1941 Linh mục Antôn Nguyễn Chẩm được bổ nhiệm đến coi sóc
giáo xứ và cũng từ đó Cây vông liên tục có Linh mục coi xứ.
Cây vông từ 1941-1996:
Như vừa nói: từ 1941 Cây Vông liên tục có Cha Xứ, nhưng Cây vông
lại phải trải qua một thời kỳ điêu đứng nữa. Cha già Antôn đă có
công mở mang giáo xứ và để lại trong ḷng mọi người một kỷ niệm
xương máu và nước mắt.
Năm 1945, Ngài bị vu cáo là Việt Gian và bị tống giam cùng với
ông câu nhứt Hồ Khải, ông biện Nguyễn Dược (thân phụ của Linh mục
Phêrô Nguyễn quang Sách) ông biện trần Lục và ông hội đồng sự (người
Nha Trang tản cư) Khi Ngài c̣n trong ṿng lao lư th́ một hôm trời
mưa tầm tả, bổn đạo kéo nhau đi xem xử tử việt gian tại băi Hàn Sao
(băi cát xă Diên Thuỷ) cứ nghĩ rằng vị chủ chăn của ḿnh phải bị rơi
đầu, nhưng mọi người đă thở phào nhẹ nhơm khi không thấy có Cha sở
ḿnh trong số 7 tử tội bị trói vào cột tre. Sau đó Ngài được thả tự
do và bí mật theo dơi. Vào đầu năm 1946, một hôm vào khoảng nửa đêm,
có tiếng đập cửa nhà xứ gọi cha đi kẻ liệt, gọi măi không được nhóm
người khủng bố nổ súng, đại xuyên qua cửa chính vào nhà may không có
ai bị thương. Riêng cha già đêm ấy lánh mặt, nghĩ đêm ở pḥng mặt áo
sau bàn thờ. Gian nan khốn khó chưa phải đă qua. Khoảng tháng 3.1946
nhà xứ bị bao vây, tấn công cha Già bị thương suưt chết. Sau khi
được cứu thoát, Cha được đưa đi chữa bệnh.. giáo dân hoảng sợ, kéo
nhau sang tá túc bên Hà Dừa và Thành. Một số t́m kế sinh nhai nơi
khác. Số c̣n lại tiếp tục cuộc sống trong lo âu hồi hộp, ngày bươn
chải làm ăn. Tối đi ngủ đồn. Cuộc tản cư đánh dấu sự tan tác của xứ
đạo. Sau khi điều trị 3 tháng tại bệnh viện các bà Vinh Sơn, cha
Chẩm về lại giáo xứ với thân xác mặt mũi đầy những vết tích dọc
ngang. Sau này khi nhổ tóc ngứa cho Ngài các em nhỏ thỉnh thoảng c̣n
nhổ được những mănh lựu đạn nhỏ trồi lên trên da đầu Ngài.
Khoảng năm 1948 Linh mục Nguyễn Khắc Cần được bổ nhiệm phụ tá cho
Ngài và sau đó thay thế Ngài, để Ngài coi sóc giáo xứ Đại Điền nhỏ
hơn. Với sức trẻ trung cha đă hoạt động mạnh, nhiều đoàn thể, công
giáo tiến hành được tổ chức, trường học được xây cất, nhà thờ nới
rộng và có ánh sáng đèn điện. Một pḥng phát thuốc được mở để giúp
đỡ đồng bào trong vùng.. Sau 8 năm công khó, Cha Cần đă được bổ
nhiệm nơi khác. Cố Vị tiếp đến là Linh mục Martinô Hộ, Cố Thơm mỗi
vị lănh đạo giáo xứ ít tháng, sau đó Cha Gioan Phùng văn Như đến làm
quản xứ từ thánh 11.1957 đến đầu năm 1976. Thời gian này, cũng có
lúc gian nan: 1965 khuôn viên thánh đựng bị pháo kích. T́nh h́nh an
ninh địa phương bị đe doạ, phân nữa giáo dân lại ra đi lánh nạn. Năm
1967 lần lượt họ quy tụ về cùng với Cha xứ tu bổ thánh đường, trường
học khang trang. Năm 1970 cha lại cho nới thêm một pḥng học nữa để
đủ chỗ cho các em học sinh. Với dân số trên 1000 người lúc đó, Cây
Vông đă tổ chức được nhiều hội đoàn công giáo tiến hành, sinh hoạt
đều đặn. Về ơn gọi, Cây vông đă cung cấp cho Giáo hội 5 Linh mục và
nhiều tu sĩ, tu sinh thuộc các ḍng. Đa số giáo dân sống nghề nông,
nương rẫy, mức sống tạm đủ.
Sau ngày 30.04.1975 v́ tuổi già sức yếu. Cha già Như lâm bệnh cần
đi chữa trị và giải phẫu tại Nha Trang, trong khi ấy Đức Giám mục
Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ dạo tháng 8.1975 đă được nhà nước
đưa về tạm giam tại Nhà xứ Cây vông. Đức Giám mục Phaolô Nguyễn văn
Hoà, với sự đồng ư của chính quyền cách mạng đă cho Linh mục Vincent
Lê công Khương vềø Cây Vông vừa để coi sóc giáo xứ thay cha già Như
vừa để giúp đỡ Đức Cha Thuận bị quản thúc.
Linh mục Lê Công Khương quản xứ từ dầu năm 1976-1990. Sống vào
thời buổi khó khăn, hầu như mọi sinh hoạt tôn giáo đèu phải có phép
của nhà nước, nên giáo xứ hầu như bị tê liệt, chỉ c̣n thánh lễ chúa
Nhật là chính. Vào khoảng đầu năm 1990, cha già ra đi nghĩ hưu, Đức
Cha Nguyễn văn Hoà chỉ định Linh mục Alosiô Nguyễn hùng Vị đương kim
phó xứ B́nh Cang lên Cây Vông dâng lễ và ban các bí tích vào các
ngày Chúa nhật. Măi đến ngày 6.12.1990 Linh mục Benedicto Nguyễn
công Phú được Đức Cha Hoà bổ nhiệm quản xứ Cây Vông mới được phép
nhà nước cho nhận xứ và Linh mục Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn quang
Sách lên Cây Vông chủ toạ nghi thức nhận chức.
Nhờ tinh thần phục vụ nhiệt t́nh của Ngài, nhờ sự hướng dẫn và sự
hổ trợ tích cực của Đức Giám mục địa phận, nhờ luồng gió địa phận,
nhờ luồng gió mới đổi thay quan trọng trên thế giới cũng như tại
Việt Nam của những năm 1989 đến nay, t́nh h́nh sinh hoạt của giáo xứ
như đang ở vào thời kỳ phục hưng và tiến mạnh lên về mọi mặt.
Các linh mục phụ trách giáo xứ từ ngày thành lập đến nay:
Linh mục R.P Salomez (Cô Quới) 1913
Linh mục Stêphanô Phan văn Bính 1939
Linh mục Antôn Nguyễn Chẩm 1941
Linh mục Augustinô Nguyễn khắc Cần 1948
Linh mục R.P Jeanningros (Cố Vị) 1955
Linh mục Martinô Nguyễn Hộ 1956
Linh mục R.P Thomeret (Cố Thơm) 1957
Linh mục Gioan Phùng văn Như 11.1957- 1.1976
Linh mục Vincent Lê công Khương 1.1976- 6.1990
Linh mục Alosiô Nguyễn hùng Vị 6.1990 - 12.1990
Linh mục Benedicto Nguyễn công Phú 6.12,1990 - 8.10.2006
Linh mục Nicolas Nguyễn Hoà - Phó xứ 2005 - 10.2006
Linh mục Augustinô Mai Hứa 8.10.2006 - đến nay
Hoa quả ơn gọi:
Lúa chín th́ nhiều mà thợ gặt th́ ít, con số các em nam nữ dâng
ḿnh cho Chúa ngày càng đông và con số dự tu lại càng đông đảo hơn,
có sinh hoạt học tập và uốn nắn thường xuyên. Đặc biệt có 2 em c̣n
rất trẻ, lại rất năng động trong mọi công việc đang là Tập sinh ḍng
Kín Nha Trang.
Các linh mục xuất thân từ Giáo xứ:
Linh mục Phaolô Trần Văn Thông
Linh mục Phêrô Nguyễn Quang Sách (Đức Ông)
Linh mục Alexis Nguyễn Thạch Ngọc quản Lư TGM
Linh mục Giuse Nguyễn Hoàng Phước - Australia
Linh mục Phaolô Nguyễn Quốc Bửu
Linh mục Giuse Trần Đ́nh Hoà
Linh mục Gioan Nguyễn Hữu Tế
Linh Mục Tađêô Nguyễn Đ́nh Phúc
Các Tu sĩ Chủng Sinh
Thầy Antôn Trần Lệ SVD
Thầy Inhatio Nguyễn Khánh Thành Ḍng Citeaux
Thầy Phanxicô Nguyễn Chí (Thiên Khải) Ḍng Đồng Công
Các nữ tu Ḍng Carmel
Nt Goretti Nguyễn Thị Ngọc Lan
Nt Maria Eliane de la Trinité Vơ thị Thuư Lan
Nt Maria des Anges du Sacré Coeur Nguyễn Thi Thu
Ḍng MTG G̣ thị Quy Nhơn
Nt Theodorine Nguyễn thị Ba
Nt Léonie Nguyễn thị Ngời
Nt Rosaire Nguyễn thị Thanh Hằng
Nt Auguste Nguyễn thị Hường
Nt Denise Nguyễn Thị Bạch
Nt Maria Nguyễn Thị Cần
Nt Luxia Nguyễn thị Trừ
Nt Anna Nguyễn thị Tuyết Mai
Nt Matta Vơ Thị Thu
Ḍng Khiết Tâm B́nh Cang
Nt Anna Nguyễn thị Phân
Nt Maria Nguyễn thị Hải (Hà lan)
Nt Matta Nguyễn thị Bê (Hồng Vân)
Nt Luxia Nguyễn thị Kiểm (Thiên Uyên)
Nt Anna Nguyễn thị Thu (Thiên Giao)
Nt Matta Nguyễn thị Nhương (Như Phương)
Nt Maria Nguyễn thi Sanh (Đông An)
Nt Matta Cao thi thu Hà (Tịnh Giang)
Nt Têrêsa Nguyễn thị Nhạn (Thanh Ân)
Nt Luxia Trần thị thu Lan (Nhật Lan)
Sinh hoạt giáo xứ
1. Các lớp giáo lư
Dạy giáo lư "không ai được miễn trừ khỏi học giáo lư" nên người
cùng học giáo lư. Ngoài 22 lớp giáo lư cho lớp tuổi từ 5-6 đến
17-18, c̣n có lớp vào đời lớp dự bị hôn nhân, có kiểm tra, khảo hạch,
có cấp chứng chỉ giáo lư và tưởng thưởng khích lệ. Đó là chưa kể lớp
giáo lư dành cho dự ṭng. để phục vụ các lớp giáo lư cho trẻ em, cha
Sở ngay từ đầu khi mới nhận chức quản xứ đă tổ chức nhiều khoá đào
tạo giảng viên giáo lư không những cho Cây vông mà c̣n cho các xứ
lân cận nữa. Hiện nay số giáo lư viên của Cây vông trên dưới 40 là
thành phần tích cực nhất và được chăm sóc tận t́nh nhất.
2. Các hoạt động
Ư thức rằng nạn mù chữ c̣n tệ hại hơn nạn đói cơm, cha xứ tổ chức
các lớp đêm chống nạn mù chữ chẳng những miễn phí mà c̣n có thưởng
để động viên các em đi học. Ngài cũng đă tổ chức các lớp học t́nh
thương bổ túc văn hoá cho số con em bỏ học tiểu học, góp phần tích
cực vào công tác văn hoá xă nhà Đang có phong trào tranh đua nhau
học hành, trong thời đại đổi mới đất nước,thời đại công nghiệp hoá,
nên có rất nhiều em nam nữ đậu vào các trường đại học khác nhau
trong nước.

* Nguồn :
Trang WEB Giáo Phận
Nha Trang
|