
Lược
sử Giáo xứ Hà Dừa
1. Vị trí địa lý
Ðông giáp Giáo xứ Bình Cang (Ngã Ba Cải lộ tuyến, ranh giới Xã
Diên Toàn). Tây giáp Giáo xứ Ðất Sét (Huyện Khánh Vĩnh). Nam giáp
Giáo xứ Cư Thịnh (Cầu Lùng) và Giáo xứ Ðồng Hộ (Cầu Ông Ðường). Bắc
giáp Giáo xứ Cây Vông (Sông Cái) và Giáo xứ Ðồng Dài.
Gồm các Xã: Thị trấn Diên Khánh, Xã Diên Toàn, Xã Diên Thạnh, Xã
Diên Lạc, Xã Diên Bình, Xã Diên Hoà, Xã Diên Phước
2. Hình thành và phát triển
Theo tài liệu " Histore de la mission de cochinchine (1958-1823)
thì Giáo xứ Hà Dừa có trước năm 1740 vì ở trang 131 ghi như sau:
Visitatio Ecclesiae in Pago HA DUA (21.09.1740) Hace Ecclesia crecta
fuit Abraham III Ð Go me Labbé MARINO, Episcopo Tipolitans subtitnlo
s. Josephi.
Có dịp đên Diên Khánh, sau khi đi qua khỏi Tây Môn thành Khánh
Hoà (một di tích lịch sử do Tướng Võ Tánh xây dựng cách đây hơn thế
kỷ để chống Tây Sơn, sau này là cơ sở đầu não tỉnh Khánh Hoà của Nam
Triều), rồi theop tỉnh lộ 4 lần về hướng tây khoảng trên 100m, du
khách sẽ gặp một ngôi thánh đường đồ sộ, nguy nga; tháp chuông cao
ngất và tường xây chung quanh, đó là thánh đường giáo xứ Hà Dừa
Hà Dừa.không hiểu danh từ này có tự bao giờ và trong bối cảnh
lịch sử ra sao, nhưng theo truyền thuyết thì xưa kia hai bờ sông mọc
toàn loại dừa nước nên mới có tên Hà Dừa, tức là xứ có nhiều dừa hay
là sông dừa (Hà là sông, dừa là cây dừa).
Giáo xứ Hà Dừa là một trong những giáo xứ có lâu đời tại Khánh
Hoà, hầu hết giáo dân không là dân nguyên quán mà có lẽ từ những
tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, được qui tụ bởi phong trào Nam tiến thời
Chúa Nguyễn ().
Hà Dừa xưa có chung thánh đường với giáo xứ Cây Vông ở Hà Gai (thuộc
Xã Diên Lâm hiện nay) một vài di tích vẫn còn trong vùng đất ông Lập,
nội tổ ông Nguyễn Bàn, sau bị đốt phá mới di chuyển về khuân viên
hiện nay thuộc làng Trường Thạnh.
Thánh đường đầu tiên được thành lập trên khuôn viên hiện tại
nhưng chắc chắn là có trước khi Võ Tánh xây thành Khánh Hoà và đến
năm 1870, Cố Bửu (Geffroy) kiến tạo lại theo kiểu Á Ðông, tuy nhỏ
nhưng rất đẹp., có hai cửa ngõ lầu giống cửa thành. Còn thánh đườn
hiện thấy được xây dựng bằng hai thời kỳ, đầu tiên năm 1893 do Cố
Ngoan (Saulcoy), Ngài vận động giáo dân đốn gỗ, phái ông chức Tích
đi Làng Sông và Kim Châu lấy kiểu chạm trổ, Cha Nhuận vẽ sơ đồ. Năm
1917, Cố Quới (Salomez) mới xây tháp chuông, đóng trần nhà thờ, làm
nhà xứ.
Các vị chủ chăn và bàn tay xây dựng:
Linh mục Hy làm chánh xứ tiên khởi (người Quảng Nam) kế đến là
Linh mục Vận (Phú Yên) không rõ năm nào. Thời kỳ này giáo dân còn ít
và cư trú rãi rác, Linh mục lại thiếu nên từ Gò Muồng (Ninh Hoà) đến
Hà Dừa (Diên Khánh) chỉ có một Cha sở và không biết nơi nào là chánh
xứ.
Năm 1870, Cố Bửu (Geffroy) thay Linh mục Vận và năm 1876 Ngài đi
gai hiệu Bình Ðịnh, Cố Bình (Laurent) đếùn thế.
Năm 1878 Cố Ðoài (Auger) thay Cố Bình, thời kỳ này lãnh khai phá
ruộng Cầu Lùng (Phước Trạch, ruộng Sình (Cống Vông) ngân khoản do
ông đốc phủ nghiêm của Sài Gòn dâng cúng. Cố Ðoài còn mua ruộng Cư
Thạnh, cất nhà thờ Cư Thạnh, mua ruộng Nghiệp Thành và Lương Phước.
Ngài đề cử Ông trùm Xuân và ông Câu Ðậu đứng bộ. Cũng trong thời kỳ
này Văn Thân bách hại, thánh đường bị thiêu huỷ ít lâu Cố Ðoài hồi
hương.
Năm 1889, Cố Ðịnh (Gagnaire) đến nhưng chỉ có mấy tháng lại đi
Làng Sông giao cho Cố Minh (Garnier).
Năm 1893, Cố Minh về Rôma đại diện Hội Thừa Sai (MEP) Ngài dâng
cúng tượng Thánh Tâm (bổn mạng) và tượng Ðức Mẹ.
Từ năm 1893 đến 1897 là cố Ngọc (Tissier), kế là Cố Ngoan (Saulcoy).
Ngài ở được hai năm rồi đi nhà đá. Cha Nho đến thế.
Năm 1905 Cố Bình đáo nhậm chánh xứ nhưng Ngài thường ở Bình Cang
nên có Linh mục Hương làm phó.
Năm 1910 Cố Quới (Salomez) thay Cố Bình, Ngài trông nom cả Cây
Vông và Ðại Ðiền. Cố Quới từ trần tại Hà Dừa năm 1924 và được an
nghỉ tại lòng thánh đường.
Cũng trong năm 1924 Cố Nghiêm (Guéno) đến, Ngài xây dựng nhiều,
nào nhà trường, nhà lẫm, nhà xe, nhà bếp, mở rộng thánh đường, xây
thành, sửa nhà xứ, mua hai chuông (thời giá bấy giờ là 964 đồng, đỡ
đầu là Linh mục Nhuận cúng 50 đồng và bà Hào Lành ở Phan Rang cúng
100 đồng).
Năm 1932 Linh mục Ðoàn thay Cố Nghiêm, đem hai chuông lên tháp.
Năm 1936, Linh mục bính đến và đã xây dựng lại bề thành trước
thánh đường, cất nhà thờ Ðồng Dài.
Năm 1943 Linh mục Hiến thay Linh mục Bính, Ngài lợp lại mái nhà
thờ, nhà xứ, đóng ghế, làm nền nhà thờ, đóng bàn thờ gỗ, xây dựng
hang đá Ðức mẹ, dựng Thánh giá. cất lại nhà thờ Cư Thạnh. Ngài còn
chuẩn bị vật liệu để xây dựng thánh đường Ðồng Hộ, nhưng tháng
9.1945 Việt Minh cướp chính quyền chương trình bỏ dở. Thời kỳ này
phong trào Công Giáo Tiến Hành nảy nở: Hội Thánh Thể (1944), Nghĩa
Binh Thánh Thể (1946), Legio Marie (1955), Dòng Ba Phanxicô và Hội
Trợ Táng (1956).
Năm 1957, chia giáo phận, Linh mục Hiến về Qui Nhơn. Cố Thơm (Thomeret)
rồi Linh mục Nghĩa lần lượt đến nhưng Ngài chỉ ở khoảng 7-8 tháng
rồi giao cho Linh Mục Hồ Ngọc Hạnh từ năm 1964, rồi đến Cố Vị (P.
Jeanningros). Kế đến là:
Linh mục Phêrô Nguyễn quang Sách: từ 1973 đến 01.06.1979
Linh mục Phêrô Nguyễn văn Nho: từ 01.06.1979 đến 13.11.1993
Linh mục Phêrô Phạm ngọc Lê: từ 13.11.1993 - đến 8.2002
Linh mục Tađêô Lê Văn Thanh: từ 10.2002 -
Trong những bàn tay xây dựng nên giáo xứ Hà Dừa, nếu chỉ đề cập
đến hàng giáo sĩ mà thôi là điều thiếu sót. Chúng tôi muốn giới
thiệu nơi đây "cộng đồng giáo dân", trong đó có hàng chức việc,
thành phần đã say xưa, tận tụy hy sinh suốt đời mình hay ít nhất
cũng năm ba mươi năm. Chúng tôi xin đan cử những vị xuất sắc như:
Quý Ông trùm: Trùm Phụng (thân phụ linh mục Phan), trùm Khuyên,
trùm Xuân, trùm Học, trùm Tích và trùm Ðính.
Quý Ông câu: câu Chiêu (thân phụ linh mục Miễn), câu Toại, câu Hườn,
câu Vịnh, câu Ðậu (thân phụ linh mục Tường, linh mục Thì), câu Nuôi
(thân phụ linh mục Quá), câu Huề, câu Thâm.
Quý Ông: Cai Ích, Cai Tim, Giáp Liềm và bà trùm Thứ.
Những vị trên đều đã an nghỉ trong Chúa.
Hoa quả ơn gọi của Giáo xứ:
Linh mục Nhuận, - Linh mục Cẩm, - Linh mục Miễn, - Linh mục Phan,
Linh mục Thìn, - Linh mục Huy, - Linh mục Chọn, - Linh mục Tường,
Linh mục Thì, - Linh mục Quá, - Linh mục Lễ,
Linh mục Giuse Nguyễn trung Hiếu,
Linh mục J.b. Ðoàn sỹ Thục,
Linh mục F.x Nguyễn chí Cần.
Linh mục Giuse Nguyễn văn Thi.
Tu sĩ: 4 nữ tu dòng khiết tâm Ðức Mẹ
1 nữ tu dòng Franciscaine
2 nữ tu dòng nữ tử bác ái
1 nữ tu dòng Saint Paul Đà nẵng
2 Nữ tu dòng mến Thánh giá Qui nhơn
chủng sinh: 3 chủng sinh giáo phận
dự tu: 30 (15 nam, 15 nữ)
Sinh hoạt giáo xứ
1. Các lớp giáo lý
Các lớp giáo lý từ tháng 09 đến tháng 06. Giáo lý Tân tòng chia
làm hai khoá mỗi khoá 5 tháng.
Giáo lý hôn nhân: hai năm một khoá kéo dài 10 tháng dành cho các
em đã học xong vào đời III và các em trên 18 tuổi chưa lập gia đình
học vào chiều Chúa Nhật từ 14h00-16h00
2. Các hoạt động:
Hướng tương lai
Ưu tư của Giáo xứ: cũng cố đức tin cho giới trẻ, nâng cao học vấn,
sinh hoạt đạo đức gia đình.
........................
Giáo Xứ Hà Dừa hiện tại.
Số giáo dân hiện tại của GX Hà Dừa khoảng 3500 người. Cùng với sự
phát triển của xã hội, GX Hà Dừa cũng dần dần thay da đổi thịt.
Những ngôi nhà khang trang đã mọc lên đó đây. Những cơ sở kinh doanh
cũng làm cho đời sống nhiều gia đình thêm thịnh vượng.
Nhiều gia đình có con cái đang là sinh viên hoặc đã tốt nghiệp và
thành đạt tại tỉnh nhà cũng như tại Sài gòn.
Một Ngôi Thánh đường cổ kính với hơn 100 năm vẫn uy nghi tỏa sáng,
là biểu tượng cho truyền thống đạo đức của bổn đạo Hà dừa. Tiếp nối
sứ mạng của Cha Tađêô Lê Văn Thanh, Cha P.X. Trịnh Hữu Hưởng đã
chuyển về đây làm Quản Xứ Từ ngày 21/10/2007. Cha đã cùng HĐGX cộng
tác xây dựng Giáo xứ luôn Hiệp nhất, đoàn kết và vững mạnh. Cha cũng
đang có chương trình tu sửa nội thất và thay mới ghế quỳ cho ngôi
Thánh đường cổ kính thêm phần khang trang.
Ước mong Giáo xứ Hà Dừa luôn luôn sáng đẹp tình Chúa, tình người.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho những công việc tốt đẹp mà Cha Quản
Xứ và HĐGX đang nhiệt tâm thực hiện.
Nguồn : ThanhCaVietnam.net
|