Giáo Phận Nha Trang

Nhà thờ Giáo xứ Hộ Diêm

 

Nhà thờ Giáo xứ Hộ Diêm
Giáo hạt Ninh Thuận

 

Địa chỉ :  Nhà Thờ Hộ diêm, Hộ hải, Ninh hải, Ninh thuận.  ( Bản đồ )

Chánh xứ : Linh Mục Gioan Baotixita Nguyễn Kim Đệ
Phó xứ     : Linh mục Gioakim Nguyễn Tô Xuân Vinh (1/2016)

Tel

 068-871024

E-mail

http://www.giaoxuhodiem.net

Năm thành lập

 1900 (?)

Bổn mạng

 

Số giáo dân

 7620

Giờ lễ

Chúa nhật     :  4:30   -   7:00

Ngày thường :  4:30   -   18:00 (thứ 5)   -  17:30 (thứ 7)

Giờ lễ có thể thay đổi theo mùa hay mục vụ của Gx. Xin xác nhận trước  khi đi lễ

Các nhà thờ lân cận :  

Tư liệu :  Lược sử Giáo xứ - H́nh ảnh Giáo xứ 
                Ngôi Thánh Đường giáo xứ Hộ Diêm

-  Tin tức sinh hoạt

* Thánh Lễ Ban Bí Tich Thêm Sức tại Giáo Xứ Hộ Diêm (23/6/2018)- H́nh ảnh
* H́nh Ảnh Mẹ CG Hạt Ninh Hải Hành Hương Nhân Dịp Lễ Mônica (25/8/2016)
* H́nh ảnh Giáo Xứ Hộ Diêm Dâng Hoa Kính Mẹ (4/5/2014)
* Giáo Xứ Hộ Diêm Đón Cha Tân Phó Xứ (26/8/2012)
* Mẹ Công Giáo Giáo Hạt Ninh Hải Mừng Lễ Thánh Monica Bổn Mạng (27/8/2012) - H́nh ảnh

* Nhảy Lân Vui Trung Thu Tại Giáo Xứ Hộ Diêm Tối 14.08 Âm Lịch
* Thánh Lễ Tạ Ơn của Tân Linh Mục Giuse Nguyễn Đức Nhu tại Giáo Xứ Hộ Diêm (4/12/2010) - H́nh ảnh
* Tin tức mới nhất của giáo xứ trên diễn đàn Giáo Phận 
* Giáo xứ Hộ Diêm lưu luyến đưa tiễn Cha Cựu và hân hoan đón nhận Cha Tân Phó xứ - H́nh ảnh

 

Lược sử Giáo xứ Hộ Diêm

1. Vị trí địa lư

Đông giáp Đầm nại. Tây giáp xă Xuân hải. Bắc giáp giáo xứ Thuỷ Lợi. Nam giáp giáo xứ Thanh Điền.

Địa h́nh, địa thế, khí hậu: Vùng đồng bằng, nhiệt đới, nắng dài hơn mưa.

2. H́nh thành và phát triển

Những người sử dụng Quốc lộ 1 di chuyển Nha Trang đi Phan Rang khi đến cây số 8 cách Phan Rang nh́n thấy phía bên trái ngôi thánh đường đồ sộ với ngọn tháp cao vượt lên giữa những xóm đông dân cư, ngất ngưởng trông ra cánh đồng bao la bát ngát, đó là thánh đường giáo xứ Hộ Diêm.

Buổi sơ khai:

Cố Đề (R.P.Villaume) chánh xứ Dinh Thuỷ (Tấn tài), khi đă hoan hỷ về thành quả thu được bởi công cuộc dẫn thuỷ nhập điền vào đồng ruộng Tấn tài, Tấn lộc, Mỹ an và Tân hội do đập nước của ngài xây dựng ở vua Tháp (Lâm cấm), ngài đă đứng ra xin chánh phủ bảo hộ một nhượng địa khá rộng trong đồng bằng Hộ diêm gồm những đất đai hoang vu và ruộng muối phía tây Đầm Nại.

Ngài đă được chấp thuận năm 1891, đúng hơn là vào năm 1900, ngày thành lập Giáo xứ Hộ diêm. Thật sự, Cố Đề v́ quá bận tâm với những công tác quan trọng trong việc kiến thiết đập nước mới Nha trinh của ngài và công cuộc đào mương dẫn thuỷ không thể bắt tay vào việc thành lập và tổ chức họ đạo mới được.Vả lại, chứng nặng tai đă làm cho ngài bất lực trong việc thi hành nhiệm vụ cha. Do đó Đức Giám Mục Van Camelbeke, đại diện Tông toà miền Đông nam phần, đă cử cố Kim (R.P.Geoffroy) từ Qui nhơn vào ngày 30.12.1898 phụ tá ngài. Chính Cố Kim là vị khai sáng thật sự giáo xứ Hộ diêm.

1899-1918, Phụ tá Cố Đề trong một năm rưỡi, sau kế vị ngài khi ngài tử nạn ngày 6.9.1900. Cố Kim lúc đầu cư ngụ trên một g̣ cát gần "mương Ngang" ngày nay, trong một túp lều tranh vừa làm nhà ở vừa nguyện đường. Đời sống ngài rất cơ cực và bận rộn trong nhiệm vụ điều khiển công tŕnh đào mương đập dài 24 km, rộng 08 m, kéo dài trong 10 năm. Mười năm kế tiếp, Ngài dồn nổ lực vào công tác phát quang, san bằng và khai khẩn vùng đất địa bao la đầy lùm bụi và cây bần. Ngài sử dụng máy trắc lượng rất thông thạo và khéo léo đến nổi một kỷ sư hoả xa một ngày nọ đă viện dẫn ngài làm gương cho các đốc công của ông. Ngài cũng lưu tâm học ngôn ngữ Chàm, v́ đa số lao công trong công trường thuộc gốc dân thiểu số dị giáo này.

Đến năm 1906 con mương hoàn tất, Cố Kim đến ở trên một cồn cát rộng và cao hơn, chốn này những năm về trước vài gia đ́nh từ B́nh định, Quảng Nam ngài đă đem vào quy tụ ở đó. Họ đạo Hộ diêm được thành lập, để ngăn nước biển tràn vào đồng ruộng vừa khai khẩn, ngài c̣n phải đắp một con đê đất dài nhiều cây số chạy từ chân núi Cà Đú đến xóm G̣ thao.

Là một nhạc sĩ trứ danh ngài rất thích đánh đàn phong cầm (harmonium) cho con chiên ngài thưởng thức. Hơn nữa, ngài c̣n đặt một dàn chuông 12 cái lớn nhỏ đủ cở đủ giọng, làm trẻ con khoái chí và cũng là hấp lực mạnh gây sự chú ư nhiều người đến Hộ diêm. Đến thời Cố Thiết (R.P.Gallios) ngài đă dẹp dàn chuông này, phân tán số chuông rải rác cùng khắp địa phận Quy nhơn. Điều này làm cho tất cả giáo dân sở tại buồn tiếc lâu ngày.

Cố Kim cũng thành lập một ban nhạc kèn đồng nổi tiếng như dàn chuông, nhưng cuộc oanh tạc của Đồng Minh ngày 28.03.1945 chôn vùi dưới gạch đá nhà xứ phần lớn nhạc cụ, số c̣n lại dần dần biến mất.

Năm 1913, Cố Kim cất lẫm lúa nhà Chung rộng lớn bằng gỗ và dành riêng một phần để ở. Đồng thời ngài cất nguyện đường trên chỗ nhà trường hiện tại (nhà trường cũ) và hoàn thành đầu năm 1914, từ đó có thể để Ḿnh Thánh Chúa thường trực. Nguyện đường này năm 1930 được gỡ ra đem cất nhà thờ G̣ đền.

Ngài tạ thế ngày 04.11.1918 ở Sài g̣n và được an táng tại nghĩa địa Adran tuổi đời chưa đến 50, nhưng thân xác ngài đă kiệt sức v́ những cơn sốt rét thường xuyên cùng với những lo âu và công việc nặng nhọc. Trong giờ lâm chung, hẳn ngài đă vui mừng v́ nh́n thấy Giáo xứ Hộ diêm đạt được số giáo dân 1062 người rải rác trong bốn giáo đoàn Hộ diêm, G̣ đền, Cà đú và Trại cá mà con số giáo dân chỉ ghi 72 người trong năm 1900.

1919-1927, Cố Thiết (R.P.Gallioz) nối tiếp công việc của vị tiền nhiệm trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, ngài đă cho tân tạo một nhà xứ nhỏ có lầu, hầm dự trử và bể nước. Tất cả đă hoàn toàn huỷ hoại trong cuộc oanh tạc ngày 28.3.1945 nói trên. Ngài cũng mở một con đường đất song song với quốc lộ1 từ Cà đú đến G̣ đền, để cho xe ḅ của tá điền nhà Chung di chuyển khắp địa hạt mà khỏi cần quốc lộ1 cũng như khỏi đóng thuế xe. Sau đó, ngài khởi công xây móng ngôi thánh đường hiện tại, nhưng bệnh hoạn buộc ngài phải về Pháp ngày 7.2.1927. Ra đi ngài để lại cho giáo xứ Hộ diêm một đàn ḅ và một đàn cừu.

1928-1943, Cố Lợi (R.P. Piquet sau là giám mục Quy nhơn- Nha trang) với sự cộng tác giáo dân đă kiến thiết thánh đường hiện nay năm 1930 với tổn phí 24000 đồng (thời ấy). Lễ khánh thành trọng thể được cử hành ngày 22.4.1931 do Đức Giám Mục Phú chủ sự (S.E.Mgr.Tardieu). Tiếp đến 1937-1938 ngài kiến thiết thánh đường Cà Đú (Thanh điền) hiện nay và năm 1944 nguyện đường G̣ sạn.

Ngài cũng chú trọng đến việc khai khẩn đất nhà Chung ở Phước Thiện và Phước An, các họ lẻ được tách ra khỏi giáo xứ Tấn tài năm 1938 sát nhập vào Hộ diêm đến năm 1947. Ngài đă lập họ Tầm Chưởng (Phước an) và định cư tại đó, 1924 khoảng 10 gia đ́nh ngèo ở B́nh định và những người xuất thân từ viện mồ côi Đại an (B́nh định). Chính ngài đă phát động phong trào trồng bông g̣n, bắp và nhất là thuốc lá, tạo nguồn lợi cho xứ sơ,û cung cấp nguồn tài chính cho dân sở tại. Nhờ đó cuộc sống họ nên dễ dàng và hưởng được một số tiện nghi ngày nay.

1944-1948, Cố Trí (R.P.Alexandre) chăn sóc con chiên ngài trong một thời buổi đặc biệt khó khăn. V́ vậy, ngài đă thiết lập một xưởng dệt vải lớn cho toàn vùng trong lúc Việt Nam không thể nhập cảng được vải vóc từ ngoại quốc. Ngài đă cho đắp con đê đất mới dài 715 m để đóng kín doi Đầm nại làm thành một đ́a cá cho giáo xứ Hộ diêm. Năm 1947 ngài c̣n xây một thánh đường nhỏ tại Ḥn thiên với một nhà xứ thích hợp để cho một linh mục ở.

Trong thời buổi mất an ninh này, ngài rất bận tâm về việc tổ chức tự vệ cho Giáo xứ mà ngài đă nhúng tay vào từ tháng 6.1946. Do đó ngài được xem như một trong những vị tiền phong quốc sách ấp chiến lược. Theo tháng năm, ngài kiện toàn tổ chức tự vệ này hữu hiệu đến nổi các dân làng kế cận phải chạy đến xin tá túc tại Hộ diêm.

Sự kiện đáng ghi nhận là Cố Trí đă bị gạch ngói vụn nhà xứ đè trọng thương ngày 28.3.1945 trong trận oanh tạc của phi cơ Đồng minh.

1948-1975 Cố Báu (R.P.Gauthier, tổng đại diện).

Công tác đầu tay của vị thừa sai này khi mới đến là xúc tiến xây cất một nhà xứ mới, không lầu nhưng rộng răi hơn nhà cũ, rồi sang việc kiến thiết một ngôi trường gồm 5 lớp khang trang, đến 1958 lại thêm một lớp ngay trên chỗ nhà thờ cũ, như thế chứng tỏ con số trẻ em tăng trưởng nhanh chóng chừng nào.

Từ 1948-1954, như vị tiền nhiệm, ngài thường xuyên củng cố tổ chức tự vệ, cho xây thêm một hệ thống pḥng thủ, tháp canh, có thể liên lạc nhau ban đêm bằng đèn hiệu.

Năm 1955, ngài tái tạo nhà thờ G̣ sạn do thời cuộc bị hoang phế từ tháng 7.1948. Năm 1958 ngài thỉnh các bà Phước St. Paul de Chartres đến G̣ đền để điều khiển trường xứ và thiết lập trường huấn nghệ cho thiếu nữ Thượng duyên hải, sau đó thêm thiếu nữ Chàm.

Năm 1967-1968 Ngài tân tạo nhà xứ Ḥn thiên với hồ chứa nước mưa để có thể an cư một cha nào tuổi tác lớn hoặc dưỡng bệnh về đó đồng thời coi sóc cộng đoàn giáo hữu 470 người.

Giáo xứ Hộ diêm, trong ṿng 70 năm hiện đă tăng trưởng nhanh chóng từ con số 72 lúc sơ khai (1900) tiến đến mức 9310 trong năm 1970. Sự kiện này ban đầu nhờ công cuộc di dân của những gia đ́nh nhất là từ Quảng nam và B́nh Định, tiếp đến nhờ mức độ sinh sản nhanh.Tuy nhiên, cũng có một số đông thiếu đất cất nhà và không làm ăn được đă t́m sinh kế nơi khác.

Nếu trong 70 năm hiện hữu, giáo xứ này có 5 linh mục quản xứ chính thức cộng với 3 linh mục xử lư thường vụ: linh mục Linh, linh mục Lễ và linh mục An, trái lại số linh mục phó tính được khá đông và một số linh mục phụ tá. Ba linh mục đầu tiên trong số ấy: Quư linh mục Ái, linh mục Chẩm và linh mục Binh thường phải lo việc thiêng liêng cho các họ G̣ đền, Cà đú hơn là Hộ diêm. Chỉ từ linh mục Tới trong năm 1928 mới thường trực là phó xứ ở tại Hộ diêm.

Trong những năm dài, các sư huynh ḍng Thánh Giuse đă tiếp tay đáng kể cho hàng giáo phẩm của xứ hoặc đảm nhiệm việc quản thủ ruộng đất (quản lư) hoặc điều khiển trường tiểu học. Các sư huynh phụ trách văn hoá sau này được các thầy chủng viện thực tập thay thế, tiếp đến từ năm 1956 là các bà Phước tu Viện mến Thánh Giá G̣ thị.

Các hoạt động công giáo tiến hành lần lược ra đời và hoạt động nhộn nhịp:

Hội con cái Đức Mẹ ra đời năm 1940 do linh mục Lễ, và năm 1949 linh mục Phước (R.P.Béliard). Hội Thánh Thể năm 1954 do linh mục Sách. Ca đoàn Cécilia được cải tổ do linh mục Hỷ,. Liên minh Thánh Tâm năm1961 do linh mục Hành. Hội các Bà Mẹ Công Giáo năm 1967 do linh mục Lộc và Hùng Dũng năm 1969 do linh mục Thanh.

1975-1978 Giáo xứ được linh mục Giuse Lê khắc Tâm coi sóc, nhưng chỉ một thời gian ngắn ngài bị chứng bệnh ung thư rồi mất. Xác ngài được an táng sau thánh đường Hộ Diêm. Măi đến 1989 giáo xứ mới được Đức Giám Mục bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xavie Nguyễn Nhị chính thức về ở với giáo dân, lâu nay chỉ có thầy Martinô Hồ Đắc Trung và các linh mục xung quanh đến dâng thánh lễ và ban các bí tích. Năm 1990 ngài tổ chức lễ Tạ Ơn 90 năm thành lập Giáo xứ rất thành công.

Thời gian này ngài đứng ra tổ chức, xây dựng lại các đoàn thể, các phong trào đạo đức lâu nay không ai chăm sóc. Đời sống đạo của Giáo xứ như được ngọn gió mới thổi bùng lên ngọn lửa từ những mẫu than âm ỉ dưới lớp tro.

Đến 1996, ngài sử sang lại ngôi thánh đường, cho sơn lại tường trước đây quét vôi, thay và sơn lại ngói cũ, nâng và mở rộng cung thánh. Trong thời gian này ngài sángd kiến đập vách nhà Lẫm thay bằng vách gỗ, phía trên đóng râm ri thoáng mát và rộng răi có thể chứa đông giáo dân tham dự thánh lễ trong các lễ trọng và Chúa nhật. Đây cũng là nơi hội họp, dạy giáo lư, sinh hoạt văn hoá. Ngài c̣n tổ chức những phong trào văn nghệ, đặc biệt những giải bóng đá thiếu niên nhi đồng và dịp hè.

Năm 1998, Đức Giám Mục bổ nhiệm linh mục phó Giuse Nguyễn Đức Long trong niềm vui sướng hồ hởi của giáo dân, cùng cộng tác với linh mục quản xứ ngài cho trồng cây xanh và lác đá xung quanh nhà thờ, bắt hệ thống quạt. Ngôi thánh đường càng thêm khang trang, lộng lẫy. Đồng thời ngài xin Đức Giám Mục tiền mua lại hai ngôi nhà nằm trong khung viên thánh đường để có nơi hội họp và sinh hoạt cho các đoàn thể. Từng ngày giáo xứ vững bước đi lên trong đời sống đức tin và trong t́nh đoàn kết yêu thương.

Các linh mục phụ trách giáo xứ từ ngày thành lập đến nay:

  • Cố Kim (R.P.Julien Geoffroy)1899-1918.

  • Linh mục Antôn Linh (Xử lư thường vụ) 1918-1919.

  • Cố Thiết (R.P.Pierre Gallioz) 1919-1928.

  • Cố Lợi (SE Mrg. Piquet)1928-1943.

  • Linh mục Anrê Lễ (XLTV)1943-1944.

  • Cố Trí (R.P.Pierre Alexandre) 1944-1948.

  • Linh mục Antôn An (XLTM)1945-1946.

  • Cố Báu (R.P Pierre Gauthier)1948-1975.

  • Linh mục Giuse Lê khắc Tâm 1975-1978, Ngài qua đời 1978 được an táng tại thánh đường Hộ diêm.

  • Linh mục Gb Phạm hồng Thái, Quản xứ Thanh điền kiêm nhiệm giáo xứ Hộ diêm, trong thời gian Đức giám mục chưa bổ nhiệm được linh mục quản xứ từ 1978-1989.

  • Linh mục Fx Nguyễn Nhị 1989- đến nay.

  • Linh mục phó xứ:

  • Quư linh mục Jos Ái 1921-1924.

  • Ant Chẩm 1924-1926.

  • Step Bính 1926-1928.

  • Thom Tới 1928-1933.

  • Phêrô Quá 1933-1934.

  • Aug Long 1934-1935.

  • Anrê Lễ 1935-1941.

  • Thom Hườn 1941-1942

  • Gb Quảng 1942-1943.

  • Jos Số 1943-1944.

  • Martinô Hộ 1944.

  • Toach Hoá 1944.

  • Giuse Nghị 1944-1945.

  • Vinc Khương 1945-1946

  • Cố Minh (R.P. Tamet) 1946-1949.

  • Cố Lộc (R.P. Jacq Cuordez) 1946-1947.

  • Cố Phước (R.P.Don. Béliard) 1947-1953

  • Linh mục Luy Nhẫn 1953.

  • Phêrô Sách 1953-1955

  • Giuse Châu 1955-1956.

  • Phêrô Mân 1956-1957

  • Jos Tâm 1957-1959

  • Hil Hỷ 1959-1960

  • Phêrô Hành 1960-1965

  • Alex Ngọc 1962-1964

  • Phao lô Tịnh 1964-1967

  • Phao lô Lộc 1967-1968

  • Tadêô Thanh 1968-1970

  • Gb Thái 1970-1973.

  • Giuse Tinh 1973-1976.

  • FX Nguyễn Nhị

  • Giuse Long 1998- 2000.

  • Phanxicô Assisi Nguyễn Tôn Sùng 2000 - nay

  • Phó xứ: Antôn Nguyễn Ngọc Trăi 2005 - nay

Hoa quả ơn gọi của giáo xứ

  • Linh mục Fr Nguyễn Tôn Sùng

  • Linh mục Giuse Trần Văn Láng

  • Linh mục Jb Lê Văn Nh́

  • Linh mục Giuse Nguyễn Đức Long

Tu sĩ

  • Ḍng Mến Thánh Giá: Nữ tu Adrienne - Nữ tu Sophie Kết - Nữ tu Christine Phụng -Nữ tu Phạm thị Cúc Hoa - Nữ tu Nguyễn thị Trung - Nữ tu Phạm Thị Mai Linh - Nữ tu Thuư - Nữ tu Nguyễn thị Định - Nữ tu Nguyễn thị Đẹp -Nữ tu Nguyễn thị Thay

  • Ḍng Khiết Tâm Đức Mẹ B́nh Cang: Nữ tu Mélanie Minh Loan - Nữ tu Jean Marie Chế - Nữ tu Kim - Nữ tu Mến - Nữ tu Trần Thị An Tuyền - Nữ tu Trần Thị Thuư

Sinh hoạt giáo xứ

1. Các lớp giáo lư

Lớp giáo lư vở ḷng hằng năm vào dịp hè. Lớp giáo lư Kinh thánh phổ thông cho mọi giới vào ngày Chúa Nhật.

Lớp giáo lư dự bị hôn nhân hằng năm 2 lớp tổ chức học vào mùa Chay và mùa Vọng.

Lớp giáo lư viên giáo xứ sinh hoạt theo quy chế của giáo phận.

Giáo lư hôn nhân: Hằng năm tổ chức 2 khoá giáo lư hôn nhân vào dịp Mùa Chay và Mùa Vọng. Học tập trung vào dịp tối, thời gian từ 3-5 tháng. Đối tượng thanh niên thanh nữ chưa lập gia đ́nh.

2. Các hoạt động:

Đặc biệt quan tâm đến người nghèo, người neo đơn, bệnh tật. Định kỳ cứ 3 tháng một lần và dịp đại lễ: Mục vụ Bí tích và phát quà.

Hướng tương lai

Ưu tiên của giáo xứ giáo lư phụng vụ cho mọi giới. Ước mong giải quyết lao động nâng cao thu nhập cho dân. Giáo dục cho dân: Một xoá bỏ ư thức ỷ lại; một bản lĩnh sống đạo chiều sâu: Tức là đem Lời Chúa vào cuộc sống cụ thể qua đức ái và sự hiệp nhất.

Chú tâm đến việc tái truyền giáo cho giáo dân nhiều hơn. Sáng kiến bằng mọi h́nh thức sống đạo, tổ chức đại lễ. Nhằm phát động một ḷng nhiệt thành nhà Chúa, một đoàn kết và kích thích mọi người hăy trở về nguồn của đức tin lẫn xă hội văn hoá. Muốn truyền giáo, trước tiên phải hội nhập và thích nghi về mọi mặt. Loan báo bằng cuộc sống quan trọng hơn và là bước đầu cho một thuyết phục. Đối tượng: Cho hết mọi người.

 


H́nh ảnh nhà thờ Giáo xứ Hộ Diêm

H́nh ảnh Thánh Lễ Ban Bí Tich Thêm Sức tại Giáo Xứ Hộ Diêm (23/6/2018)-

Nguồn : Website GP Nha Trang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

...................................................

 

 

[Trở về đầu trang ]