
Lược
sử Giáo xứ Vĩnh Phước
1. Vị trí địa lư
Giáo xứ Vĩnh Phước nằm dọc hai bên Đường 2 tháng 4: Đông giáp
biển Nam Hải với 3 trung tâm Kitô Giáo nằm sát ven biển trên đồi cao
là Trường Ḍng Các Sư Huynh Lasan, Tu viện Phanxicô và Thần học viện
Tin Lành, nay trở thành Trường Đại Học Thuỷ Sản, Trường Hành Chính,
Trung tâm bồi dưỡng và Trường kế toán trung cấp... Phía Tây giáp
chân Núi Sạn với bệnh viện to lớn gọi là Trung Tâm Bài Cùi được các
tu sĩ Phanxicô và giáo dân xứ đạo Vĩnh Phúc thiết lập, ngày nay gọi
là Bệnh Viện Da Liễu... Phía Nam giáp Sông Cái, Phía Bắc giáp Phường
Vĩnh Hải với Trung Tâm Dưỡng Lăo Rù Ŕ to lớn, cũng do các tu sĩ
Phanxicô và giáo dân Vĩnh Phước góp phần xây dựng.

2 H́nh thành và phát triển
Giáo xứ Vĩnh Phước có tên có tuổi trong Giáo phận Nha Trang kể từ
1957. Trước 1964 gọi là Họ Đạo Cù Lao, v́ số giáo dân thu hẹp ở trên
địa bàn làng Cù Lao, thuộc Xă Vĩnh Phước. Khi số giáo dân tăng lên
đông đảo ở rải rác trên toàn Xă, th́ Họ Đạo Cù Lao lại được đổi tên
là Giáo Xứ Vĩnh Phước. Ngày nay, Xă Vĩnh Phước được chia thành hai
Phường: Vĩnh Phước và Vĩnh Thọ. Để tránh sự nhầm lẫn với Nhà thờ
Vĩnh Phước của anh em Tin Lành, Nhà thờ Giáo xứ Vĩnh Phước được gọi
là nhà thờ An-Tôn Vĩnh Phước.
Trong địa bàn của Giáo xứ, có thắng cảnh Tháp Bà, một cổ tháp do
dân tộc Chàm xây dựng đă 1900 năm, trên một ngọn núi nhỏ, sát đường
2-4, kề bên chiếc cầu Bóng nổi tiếng bắc qua Sông Cái, dài 300m,
vững chắc và tráng lệ.
Một buổi chiều hè, đông đảo dân chúng tới thưởng thức những làn
gió mát của biển khơi và ngắm nh́n những đoàn tàu thuyền qua lại
trên Bến Cá.
Lại c̣n có thắng cảnh Ḥn Chồng thơ mộng với những tảng đá to lớn
ngâm ḿnh trong nước, chồng chất lên nhau tạo thành một vẻ đẹp hùng
tráng đầy quyến rũ. Nơi đây có hang đá để nấp mưa, ẩn gió, nơi kia
có chỗ dựa lưng ngồi ngắm cảnh trời mây nghe tiếng sóng vỗ, đưa mắt
liếc sóng biển mênh mông vô tận. Các du khách cũng như dân địa
phương cũng thích đến chỗ này để thưởng thức cảnh đạp thiên nhiên.
Đến một lần sẽ nhớ măi không quên.
Từ năm 1930, Ḍng Các Sư Huynh Lasan đến đặt cơ sở tu tŕ và giáo
dục ở đồi Cù Lao, một số giáo dân từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào đây
sinh sống giúp các việc nội dịch cho Ḍng, lập cư gần tu viện. Năm
1939, tiếp theo lại có các tu sĩ Ḍng Phanxicô Khó Nghèo đến khai
thác một quả đồi gần bên và xây dựng nên Tu Viện. Công tŕnh xây
dựng này đă chiêu tập một số lớn công nhân mà phần đông là người
Công Giáo. Do đó, số dân lại được tăng thêm. Việc sinh hoạt tôn giáo
của các giáo dân này đều nhờ vào Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên, Tuyên
uư cho Ḍng Lasan lúc bấy giờ, giáo dân thường xuyên tham dự thánh
lễ ở nhà thờ Ḍng Lasan hoặc Ḍng Phanxicô.
Năm 1947, chiến tranh tạm ngừng, các Linh mục Ḍng Phanxicô bắt
đầu tiếp xúc và hướng dẫn số dân này về phần thiêng liêng.
Năm 1949, Linh mục Bernard Dương Liên Mỹ, Ḍng Phanxicô, được cử
coi sóc bà con giáo dân ở Cù Lao, đồng thời dạy dỗ một số anh chị em
"Tân ṭng" từ Lương Sơn di cư vào Phú Xương. V́ nghĩ rằng trong
tương lai sẽ có nhiều người tân ṭng ở Phú Xương hơn ở Cù Lao, nên
Ngài đă cất tạm một nhà thờ ở Phú Xương, đối với Trường Hạ Sĩ Quan
Đồng Đế bấy giờ. Số giáo dân Cù Lao nhập lại với số giáo dân Phú
Xương thành lập họ Phú Xương (Thư T.G.M Nha Trang, 20.12.1950).
Nhưng năm 1953, nhà thờ Phú Xương phải dời về địa điểm Thanh Hải.
Và từ đó xứ Phú Xương lại đổi tên là xứ Thanh Hải. Xứ đạo này sau
khi đă có cơ sở vững vàng, có trường Tiểu Học Nam Thông, Ḍng
Phanxicô đă giao lại cho giáo phận Nha Trang từ hè năm 1959.
Năm 1954, với phong trào di cư vào Nam, số giáo dân từ Hà Tĩnh,
Quăng Trị tới định cư ở Cù Lao rất đông. đầu năm 1959, Cù Lao đă có
96 gia đ́nh, gồm 370 người. Cùng thời điểm này, Cù Lao được tách rời
khỏi Thanh Hải, để trở thành một số nhà chính thức, có Cha Alix
Bourgeois Ḍng Phanxicô làm Cha Sở (Thư T.G.M Nha Trang ngày
1.9.1955).Năm 1956, xứ Cù Lao đă có 200 gia đ́nh với số giáo dân
tăng lên 938 người.
V́ nhu cầu bắt buộc, năm 1957, một ngôi Thánh đường đă được cất
lên gấn Quốc lộ I (nay là đường 2 tháng 4) rộng 6m, dài 20m (năm
1978, ngôi Nhà Thờ này đă nhường lại cho các Tu sĩ Phanxicô làm Tu
viện hiện nay).
Nha Trang có địa lợi, nhân tài, có danh lam thắng cảnh hấp dẫn
thập phương, đồng bào khắp nơi t́m về đây xây dựng cuộc sống. Riêng
ở xứ Vĩnh Phước, năm 1962, số giáo dân đă tăng lên 1540 người.
Nhà thờ xây cất năm 1957, nay đă hoá ra chật hẹp lần nữa lại phải
đặt ra vấn đề làm lại Nhà thờ cho rộng răi hơn.
Ngày 7/4/1963, Đức Cha Piquet, Giám mục Giáo phận Nha Trang đă
đến đặt viên đá gốc cho Nhà thờ. Cùng năm ấy, xứ Cù Lao được đổi tên
là xứ Vĩnh Phước. Nhờ sự khích lệ, giúp đỡ của Giáo phận về mặt tinh
thần cũng như vật chất, các xứ Đạo đàn anh, đàn chị đă gởi tiền ủng
hộ. Mọi giáo dân trong xứ Vĩnh Phước, ai ai cũng nô nức sẵn sàng góp
công, góp của để thực hiện việc xây cất. Riêng đối với bà con của
hai Khu giáo làng chài Phêrô và Phaolô ngoài sự phân bổ nghĩa vụ
đóng của Giáo xứ, bà con trong 2 Khu giáo đă dùng ngày Chúa nhật đem
thuyền ra khơi đánh cá "đổ đồng" giúp Giáo xứ.
Với sự cố gắng phi thường của bà con giáo dân sở tại, kết hợp với
sự hỗ trợ rộng răi của các ân nhân xa gần, đặc biệt với tinh thần
năng nỗ tích cực của Linh mục Alix Bourgeois, và Ban Hành Giáo xứ.
Sau thời gian 8 tháng vất vả và lao nhọc, giáo xứ đă hoàn thành xây
dựng ngôi nhà thờ với chiều rộng 15m và chiều dài 50m. Đầu năm 1965,
Linh mục Gerard Phạm Anh Thái đươc bổ nhiệm làm Cha Sở thay Linh mục
Alix. Số giáo dân có 316 gia đ́nh với 2053 cuối năm 1966, nhưng cuối
năm 1967 số giáo dân lại tăng lên 371 gia đ́nh.
Năm 1969, Linh mục Berard Trần Bá Phiên được bổ nhiệm làm Cha Sở
thay Cha Thái. Với tinh thần hoạt bát năng nổ của ngài, kết hợp với
tin thần đạo đức tận t́nh giúp đỡ của bà con giáo dân và ân nhân xa
gần.Giáo xứ lại xây thêm một nhà ở cho Cha Xứ, nhà hội cho các lớp
Giáo lư và lớp Thiếu Nhi Thánh Thể - Năm 1974, số Giáo dân đă tăng
lên tới 2548 người.
Năm 1975, biến cố giải phóng miền Nam đă gây ra sự di tản của một
số bà con giáo dân trong xứ đạo, một số đi về quê, một số đi vùng
kinh tế mới hoặc đi ra nước ngoài,số giáo dân đă giảm xuống chỉ c̣n
độ 1500 người. Tuy nhiên, cho đến năm 1997, giáo xứ lại được tăng
lên 450 gia đ́nh với số giáo dân khoảng 2200 người.
Trong lúc giao thời, Linh mục Phêrô B. Đỗ Long Bộ đă giữ trách
nhiệm Cha Sở xứ Đạo thay Linh mục Berard Phiên từ 1975 đến 1978.
Giáo xứ Vĩnh Phước có một đặc điểm đáng ghi nhớ là từ ngày khai sinh
đến nay, các Linh mục quản xứ đều là các linh mục Ḍng Phanxicô.
Linh Mục Vincentê Hoàng Văn Lư, được bổ nhiệm làm Cha Sở từ tháng
Giêng năm 1979, có các anh em Tu sĩ Phanxicô ở lại Tu Viện kế bên
Nhà thờ giúp đỡ làm công việc phục vụ giáo dân trong giáo xứ.
Tháng 11 năm 1990, nhận thấy nhận thấy Nhà thờ được xây cất từ
1963 có nhiều mặt xuống cấp trầm trọng v́ trải qua biết bao nắng mưa
sương gió, giáo xứ đă phải trùng tu lại nhà thờ hợp với hoàn cảnh và
nhu cầu cần thiết. Hiện nay, giáo xứ được diễm phúc có một ngôi
Thánh Đường mới, tôn nghiêm, bề thế, với tháp chuông cao 20m, sánh
vai với các ngôi Thánh Đường lớn có tầm cỡ trong giáo phận nhà.

Tóm lại giáo xứ Vĩnh Phước từ ngày khai sinh đă từng bước được
hướng dẫn, dưỡng nuôi trong t́nh thương bao la và ḷng đạo đức gương
mẫu của quí Linh mục, quí thầy Ḍng Phanxicô, nên đă lớn khôn,
trưởng thành như ngày nay. Đặc biệt là Linh mục Alix Bourgeois,
người có công khai sinh ra Giáo xứ, vàø Cha Vincentê Hoàng Văn Lư,
với 19 năm trong trách nhiệm làm Cha Sở, tiếp tục vun đắp công việc
của các vị tiền nhiệm. Ngài có công rất nhiều trong việc tái thiết,
kiện toàn dung mạo của Nhà thờ và của Giáo xứ từ nội dung đến h́nh
thức như hiện có.
Vậy, Giáo xứ Vĩnh Phước tuy rằng gồm các giáo dân ở nhiều địa
phương tụ họp lại, khác tập quán, khác cung giọng, nhưng qua thời
gian đă chung lưng góp sức xây dựng, lắm lúc phải giũa gọt mới suông
sẽ, thế nhưng ngày nay cũng nhờ sự dị biệt đó mà tất cả đă nên như
nhiều cành hoa khác nhau, gom thành một đoá hoa lắm sắc muôn màu
trong Giáo phận Nha Trang vậy.
Các Linh Mục quản xứ thuộc Ḍng Phanxicô
Lm Alix Bourgeois 1955 - 1965
Lm Gérard Phạm Anh Thái 1965 - 1967
Lm Clêrueutê Trần Thế Minh 1967 - 1969
Lm Bérard Trần Bá Phiên 1969 - 1975
Lm Phêrô Baptista Đỗ Long Bộ 1975 - 1979
Lm Vincentê Hoàng Văn Lư 1979 - 1998
Lm Giuse Nguyễn Xuân Quư 1998 -
Hoa quả ơn gọi của giáo xứ
Lm Micae Nguyễn thế Minh
Lm Phêrô Nguyễn văn Hưởng
Lm Phêrô Nguyễn văn Quư
Lm Noberto Nguyễn văn Khanh
Lm F.x Trần xuân Thứ
Lm Phêrô Nguyễn quang Vinh
Lm Jbm Nguyễn anh Thư
Lm Giêrađô Nguyễn quang Minh
Lm Micae Nguyễn minh Lập
Lm Gioakim Nguyễn kim Khánh
Tu sĩ: Tađêô Phạm văn Hiền
Nữ tu: Nguyễn thị Lợi
Nữ tu: Nguyễn thị Tiên
Nữ tu: Trần thị Thân
Nữ tu: Trần thị Hạ
Nữ tu: Nguyễn thị Cường
3 chị tu đời
dự tu Trần thị Loan
Sinh hoạt giáo xứ
1. Các lớp giáo lư
Đồng ấu: 3 lớp. Thêm sức: 3 lớp. Bao đồng: 3 lớp. Trung kiên 1
lớp.
Bồi dường Giáo Lư Viên. Hôn nhân và Tân ṭng: Mỗi năm 2 khoá
chính thức
2. Các hoạt động:
Tham gia với địa phương trong Hội Chữ Thập Đỏ. Thường xuyên hưởng
ứng giúp đỡ các hội của Thành Phố Nha Trang: Người mù, tàn tật, nông
dân, người cùi.
Tự nguyện giúp đỡ các trường hợp già nua, bệnh tật, nghèo khổ
trong giáo xứ.
Hướng tương lai
Giáo dân có ư thức và thao thức về truyền giáo. Không có tổ chức
bên ngoài nhưng âm thầm bằng hành động và gương đời sống.
Tổ chức tốt giáo xứ, đời sống đạo, các ngày lễ và các lễ tang, lễ
cưới, lễ giỗ và sẵn sàng tiếp đón là cách truyền giáo trong môi
trường phức tạp này. Đặc biệt với môi trường hoạt động tích cực của
anh em Tin Lành số người Phật giáo hoặc cảm thấy đủ cho ḿnh rồi,
hoặc lơ là việc tôn giáo phải có truyền giáo bằng chứng tá lâu dài
để đáp ứng mới nhu cầu thực tế trên.
Ưu tiên của giáo xứ: nâng cao học vấn, việc làm, sinh hoạt giới
trẻ. Ước mong làm sao tạo được hăng say và nhiệt thành sống đạo và
hành đạo trong giáo dân mà không cần dùng đến các h́nh thức tổ chức
rầm rộ hoặc phô trương bên ngoài
* Nguồn :
Trang WEB Giáo Phận
Nha Trang
Xem thêm : [Giáo
xứ Vĩnh Phước: H́nh thành và Phát triển]
|