Lược
sử Giáo xứ Búng
Linh Mục Chánh Xứ
Họ Đạo Búng
MICAE NGUYỄN VĂN MINH
THAY LỜI TỰA
“Con người có tổ có tông
Cây đa có cội, con sông có nguồn”
“Lịch sử Họ Đạo Búng”
ngày nay được ươm mầm, mọc lên và phát triển từ hơn 200 năm trước.
Từ thời đi bằng ghe, sống nhà tranh, khai đất, phá
rừng, trồng trọt, chăn nuôi…cho đến thật sự h́nh thành năm1875 với
Cha Sở chính thức đầu tiên, cha Antôn Nguyễn Văn Vơ…và măi tận hôm
nay, Họ Đạo Búng đă trăi qua 14 đời cha sở chính thức, 4 cha sở tạm
thời (ở vài tháng), 14 cha phó phục vụ.
Quyển “Lịch sử Họ Đạo Búng”
này ra mắt để ôn lại quá khứ với bao thăng trầm, nhằm làm điểm tựa
cho việc sống đạo hôm nay, và làm các đà vững chắc để phát triển Họ
Đạo ngày mai.
Với tư cách là cha sở thứ 14 của Họ Đạo có truyền
thống tốt đẹp từ xa xưa, tôi xin giới thiệu
“Lịch sử Họ Đạo Búng”.
Uớc mong những ai đọc quyển lịch sử này thêm hiểu biết và yêu mến Họ
Đạo Búng hơn.
Xin kết luận bằng những lời của
sách Huấn Ca 8, 8-9:
“Chớ khinh thường chuyện các bậc khôn ngoan kể lại,
hăy nghiền ngẫm phương ngôn của các Ngài….Đừng bỏ qua chuyện các vị
cao niên kể lại. V́ chính các Ngài đă học hỏi nơi tổ tiên ḿnh…”
Búng, ngày 31 tháng 07 năm 2007
Linh Mục Chánh Xứ
Họ Đạo Búng
MICAE NGUYỄN VĂN MINH
I.
THỜI KỲ KHAI PHÁ:
A.
VÙNG ĐẤT BÚNG
1.
NH̀N TỔNG THỂ
v
Phó giáo sư tiến sĩ Phan Xuân Biên khi viết về:
“Cư dân B́nh Dương qua các thời kỳ lịch sử”
đă cho thấy lúc khởi thủy đất B́nh Dương là nơi sinh
sống của người Stiêng, Mạ, Châu Ro. “Nhóm người Tamun ở Sóc 5, xă
Minh Ḥa và nhóm người Stiêng Budeh c̣n nói rằng cách đây không lâu,
ông cha của họ c̣n ở vùng Thuận An (Lái Thiêu). Rất có thể họ là
thành phần cư dân của “Vương quốc Mạ” trong lịch sử từng tồn tại
theo hai bờ sông Đồng Nai ở trung lưu và hạ lưu. Sau này, do áp lực
của nhiều luồng di dân, nên họ đă lui dần về thượng lưu.”
v
Phó giáo sư Huỳnh Lứa c̣n mô tả chi tiết hơn
“Vùng đất nay là B́nh Dương cho đến thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, vẫn c̣n
là vùng hoang dă, rừng rậm lan tràn…Từ đầu thế kỷ 17, lớp cư dân mới
người Việt từ miền Thuận Quảng nhập vào.”
v
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng viết:”Lưu dân
miệt ngoài vào B́nh Dương khai hoang cặp theo sông. Đất B́nh Dương
nằm giữa hai con sông lớn Là Đồng Nai và sông Sài G̣n…Tuy chưa có
tài liệu chính xác, song chúng ta tin rằng dân các xă Phú Cường, Phú
Lợi, vùng Lái Thiêu, Tân Khánh…cùng lúc với dân Bến Ghé, Cù lao Phố.
Như vậy, người Việt ở B́nh Dương được xem là loại “cổ” của Nam Bộ”
v
Mùa xuân năm Mậu Dần(1698) chúa Nguyễn Phúc Chu
sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, thiết lập hệ thống quản lư
hành chính vùng này “lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh
Trấn biên…”. Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ lưu dân từ châu Bố
Chánh (nay là Quảng B́nh) đi vào Nam lập nghiệp.
v
Theo lịch sử Họ Lái Thiêu, trong số những người lập
cư thời ấy, chắn chắn có người Công giáo đến vùng Lái Thiêu sinh
sống và lập giáo xứ. Bởi v́, theo Launay, th́ từ năm 1747 (giữa thế
kỷ 18) Lái Thiêu có tên trong danh sách 11 họ đạo của vùng đất Trấn
Biên (Đồng Nai) và có đến 400 giáo dân. Hơn nữa, nhà thờ đầu tiên
được dựng lên tại vùng đất có nhiều g̣ nỗng và cây rừng. Nên được
gọi là
HỌ G̉
cho đến năm 1787. Trong một thủ bút được để lại ở ṭa
Tổng Giám Mục Sài G̣n, có lẽ đă được viết ra vào đầu thế kỷ 20, nói
về xuất xứ họ đạo Tân Qui (Origine de la chrétienté de Tan Qui), có
ghi nguyên văn: “Thủa xưa, họ Tân Qui là một phần đất hoang không ai
ở, thuộc về làng B́nh Nhan Thượng, tỉnh Gia Định. Năm 1783, đời Đức
Cha Vêrô, có một ít nhà đạo ḍng ở Búng và Lái Thiêu tới khẩn đất và
ở luôn đó….”
2.
XỨ BÚNG
v
Và khi viết về xứ Búng, cựu cha sở Martin (Nghi) đă
ghi lại như sau:
“Vùng đất họ đạo Búng và B́nh Sơn ngày nay là vùng
đất xưa kia ngập nước, không trồng trọt được. Nhưng nhờ phù sa sông
Sài G̣n mà đất trở nên ph́ nhiêu, nên người Việt nhận ra và đến sinh
sống ở đây. Những người Công giáo đầu tiên đến đây từ Huế (đúng hơn,
từ Miền Trung NV ). Họ bỏ nơi đang sống v́ luôn có chiến tranh và
nhiều khó khăn phải chịu đựng. Xứ Búng, gần Lái Thiêu, gần như có đủ
điều kiện mà họ ao ước.”
Lúc đó, vùng này là vùng ẩm thấp mà người ta gọi là
cái Búng, có nhiều đường nước nhỏ gọi là đường long (hay c̣n gọi là
“long mạch”). Từ cầu Cây Trâm, có con rạch lớn, ghe thuyền có thể đi
tới vùng đất nghĩa trang họ đạo Búng ngày nay.
B.
CƯ DÂN XỨ BÚNG
Những người đầu tiên đến cư ngụ tại vùng cái Búng
được cha sở Martin ghi là các ông Hương, Tùng, Bời, Dũi, Ở. Tất cả
họ là đạo gốc. “Họ tụ tập ở nhà ông Bời để đọc kinh cầu nguyện. Để
sinh sống, họ chăn nuôi ḅ, trâu và nuôi tằm. Rồi họ khai khẩn đất
đai, trồng trọt, sau một thời gian ngắn, họ có cuộc sống khá đầy đủ.
v
Đặc biệt có ông Nguyễn Thới B́nh , một trong những
người đầu tiên có công khai hoang vùng Búng và lập ra làng Hưng Định
từ đó đến nay. Ông nguyễn Thới Linh (cháu năm đời của ông B́nh, là
cha của các ông Nguyễn Thới Khai, Nguyễn Thới Đắc, và linh mục
Nguyễn Thới Mậu) có viết về “tên” như sau: “Với tục lệ người Nam có
cái thành kiến là cữ nói đến tên người lớn. Nên khi ấy dân trong
làng không bao giờ dám nói tiếng ǵ có tên ông. Khi gặp phải th́ nói
trại ra là
BƯỜNG
hay
BẰNG
mà thôi, như bất bường, công bằng…”
v
Vậy khi cha Martin viết “Họ tụ tập ở nhà ông Bời để
đọc kinh cầu nguyện” th́ người kể lại cho cha Martin viêt khảo luận
này (10/02/1911) cũng né tránh tên hoặc truyền khẩu cả trăm năm là
như thế, nên người ta chỉ biết là Bường, Bằng hay Bời (cha Martin
ghi), chứ không biết tên đích thực là
B̀NH.
v
Cuối thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1800) một người
quê quán ở Quảng Ngăi (Miền Trung) (có chỗ ghi: Quảng B́nh (Bắc
Trung Bộ) tên là Nguyễn Thới B́nh. Sau khi thi đậu Bảng nhăn, ông
được cử làm Tri châu. Sau 12 năm quan trường, ông cáo bệnh và xin từ
quan. Ông sang làm nghề Đông y với hiệu là Đức Trọng. Hằng năm, ông
thường theo ghe vào phía Nam bán thuốc trị bệnh, với mong ước di cư
lập nghiệp.
v
Đến vùng Búng, ông để ư đến cái Búng nước đó và muốn
lập cư khai khẩn, nhưng v́ cha mẹ c̣n sống, ông không bỏ đi được.
Măi đến khi ông ngoài 40 tuổi, cha mẹ mất, ông mới quyết định rời
quê hương cũ, mang theo vợ và 2 con, con gái tên Nguyễn Thị Hưng,
với chồng là Lê Văn Quyền, và con trai là Nguyễn Văn Định, c̣n độc
thân.
v
Lúc đầu, ông tá túc ở nhà người thân ở Lái Thiêu. Dần
dần, cha con vào G̣ Cầy (nay là vùng đất từ B́nh Ḥa, Lái Thiêu đến
ngă tư Ḥa Lân), chặt cây cắt tranh làm nhà ở khoảng đất cao, gần
nghĩa trang họ đạo Búng ngày nay. Khi định cư xong, ông B́nh lo sắm
trâu để làm ruộng, ngựa để di chuyển. Con gái Nguyễn Thị Hưng và
chồng là Lê Văn Quyền ra riêng ở Cầu Ngang. C̣n Nguyễn Văn Định là
con trai th́ cưới con gái Họ Vơ ở Lái Thiêu. Khi đă tạo nên sự
nghiệp vững vàng , ông B́nh cho con trai và con rể về quê miền Trung
để vận động bà con thân thuộc vào xứ Búng lập nghiệp. Cư dân ở vùng
lân cận cũng đến Búng để sinh sống. Và từ đó, xă Hưng Định được h́nh
thành.
v
Và cũng có một gia đ́nh nguyên quán ở Huế vốn ḍng
quyền quư, đă từng pḥ vua giúp nước, đă di cư vào Nam , định cư ở
xứ Búng. Đó là gia đ́nh của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê
Nguyễn Thị Thường. Không rơ v́ lư do nào mà cuối đời Gia Long (1802
– 1820) hai ông bà rời quê quán, cùng các con vào Nam , định cư ở
vùng Cầu Ngang. Chính tại nơi ở mới này mà đứa con út là
Phêrô Đoàn Công Quí
đă được sinh ra vào năm 1826.
v
Có thể tóm tắt như sau:
Vùng đất Búng là vùng thung lũng cô nước, giống đầm lầy, có cây cối
rừng rậm, chưa được khai hoang, dù Búng gần G̣ Cầy với nhà thờ Họ G̣
đă có từ lâu (thế kỷ 18), gần Lái Thiêu với số giáo dân là 400 vào
năm 1747. Và cư dân đầu tiên khai khẩn là những người từ miền Trung
vào, cộng thêm những người ở vùng lân cận đến vùng cái Búng làm ăn
sinh sống, định cư lập làng và đồng thời là người công giáo, nên họ
cũng qui tụ đọc kinh ở nhà.
C.
SINH HOẠT CÔNG GIÁO LÚC ĐẦU:
1.
NHÀ THỜ:
Nhà thờ đầu tiên được xây cất từ đầu thế kỷ 19, nằm
trên phần đất của ông Nhờ, gần nhà ông B́nh (nay là đất thánh Búng),
được xây dựng bằng cây cột chôn, và lợp bằng tranh. Nhà thờ này chỉ
tồn tại hết một cơi tranh. Về việc lập ngôi nhà thờ đầu tiên, ông
Antôn Nguyễn Thới Linh, cháu năm đời của ông Nguyễn Thới B́nh, đă
ghi lại như sau: “Song song với việc lập làng, cất công sở ở đất
ngoài (Hưng Thọ/Cầu Ngang bây giờ) th́ nơi ấp trong (Hưng Lộc) cũng
đang dựng lên một ngôi thánh đường có Ban Quới chức và tự nhiên
người xướng lập lănh vai ông Trùm. Khi ấy người có đạo đặng vài mươi
gia đ́nh. Có nhiều người ngỏ ư muốn cất nhà thờ ở Hưng Thọ….nhưng
ông Trùm không chịu, ông nói:"Có lẽ các ông nói tôi ngại đi xem lễ
xa nên cất gần nhà, lời ấy cũng đúng phần nào thôi. Hơn thế, chính
tôi có bổn phận phải bảo toàn nhà ấy và những ǵ thuộc về ấy, chẳng
hạn như đồ thờ phượng, hoặc khi có ông cha ở lại một hai ngày, có
khi cả tuần, và tôi c̣n phải t́m phương tiện để đưa các cha đi vào
các nơi xa có bổn đạo ở rải rác như Bến Sắn, Bố Mua….Anh em nên biết
người có đạo chỉ trọng cái hồn hơn cái xác, nên tôi để cho rể con
tôi nó gánh vác cái thế quyền c̣n thần quyền nặng hơn nên tôi phải
lo”. Địa điểm nhà thờ (đầu tiên) tại chổ đất nhà chung, dưới đất
thánh hiện giờ.
Khi mái tranh bị hư, người ta mới cất một nhà thờ
khác (nhà thờ thứ hai), tiện nghi hơn, mái lợp ngói, nằm trên phần
đất của ông Ràng (ở dốc Sỏi bây giờ). Nhà thờ này bị bỏ hoang khá
lâu trong thời kỳ cấm đạo.
2.
HỌ ĐẠO GHE TÁM:
Tại vùng Búng có cây sao rất to. Giáo dân đă chặt cây
ấy, đóng thành một chiếc ghe có chiều dài đến tám tầm, nên người ta
đặt là họ đạo Ghe Tám.
Theo một tài liệu khác, ngôi nhà thờ đầu tiên được
cất ở gần ở gần con suối lớn (nay là đất thánh Búng). Thời đó, suối
này nhiều nước, ghe thuyền thông thương đến tận nơi, có những chiếc
ghe bầu lớn có tám chèo, c̣n gọi là ghe tám. Nên nhà thờ đầu tiên
mang tên là
Ghe Tám
Tên gọi này c̣n kéo dài măi cho tới khi có được ngôi
nhà thờ thứ ba như sẽ thấy sau.
3.
NGƯỜI CÓ ĐẠO:
Theo tài liệu cha sở Martin (Nghi) ghi lại th́ lúc ấy,
số giáo dân là khoảng 300 người. Nên biết rằng vùng này đầy bụi cây
rậm rạp, ít người ở, nên người lương trở lại đạo th́ không có. V́
vậy số dân này đa số là người có đạo ở miền Trung vào, cộng thêm
những người có đạo ở xung quanh đến khai khẩn sinh sống.
II.
THỜI KỲ CẤM ĐẠO (1825-1869)
A.
CÁC LINH MỤC
Thời kỳ cấm đạo, các linh mục đến một cách thầm lặng,
không rơ tên tuổi, trừ hai linh mục bản xứ là cha Duông và cha Thông
(chịu chức linh mục khoảng 1800 – 1849), thuộc thế hệ thứ hai, theo
danh sách các linh mục miền Nam). Hai cha này thỉnh thoảng từ Lái
Thiêu đến họ đạo Ghe Tám để cử hành các Bí Tích.
v
Thường các linh mục bản xứ đến Búng trong thời kỳ cấm
cách lúc th́ ở nhà ông Vưa, lúc ở nhà ông Nhờ, ông Tín (cháu nội ông
B́nh) hay có khi ở nhà bà Hảo. Trong số các linh mục đó, th́ cha Tám
năm 1847 (dạy tiếng Latinh cho Phêrô Đoàn Công Quí và cho Ngài vào
chủng viện), cha Lợi, cha Kiên được ủy quyền ban bí tích thêm sức
(cha Lợi, cha Kiên thuộc thế hệ linh mục bản xứ 1, cha Tám thuộc thế
hệ hai. Danh sách linh mục miền Nam ).
v
Người ta c̣n ghi nhận Chân phước Marchand Du (sinh
1803, 1830 đến Lái Thiêu, tử đạo 30/11/1835 ) đă đến họ đạo Ghe Tám.
Ngài đă cử hành thánh lễ tại đây. Cùng đi theo Ngài có Cố Phương,
hai người cũng đă trừ quỉ cho con của bà Thơ.
v
Năm 1844, Ṭa thánh thiết lập Giáo phận Tây Đàng
Trong (Sài G̣n) đặt Giám Mục Lefèbvre (Ngăi) cai quản giáo phận
(1844 – 1864). Lúc đó, ṭa Giám mục vẫn c̣n ở Lái Thiêu. V́ vậy Ngài
đă đến họ đạo Ghe Tám và ở trong nhà của một giáo dân. Tuy nhiên,
những người không có đạo đă biết được và theo dơi Ngài, nên giữa đêm
khuya Ngài đă ra đi đến Đá Tráng ( Bố Mua). Người ta kể rằng Ngài đă
gặp cọp trên đường đi.
v
Các linh mục như cha Tại, cha Giáo, cha Y, cha Chữ
nhiều lần đến thăm giáo dân. Đồng thời các ngài cũng giúp đỡ tiền
bạc, quần áo cho những người lương nghèo túng có ư định theo đạo.
v
Cha Dưỡng khi c̣n Thầy Sáu (Phó tế) đă đến Lái Thiêu
và cả họ đạo Ghe Tám để hướng dẫn giáo dân và chuẩn bị cho một số
thiếu nhi được rước lễ lần đầu. Tuy nhiên. Người lương phát hiện và
theo dơi Thầy, nên Thầy phải lội qua sông mà ra đi.
v
Năm 1858, cha Phêrô Đoàn Công Quí
lănh chức linh mục. Là người con út của đất Búng, nên Ngài về quê
“vinh qui bái tổ”. Ngài đă dâng thánh lễ một cách âm thầm ở G̣ Cầy.
Ngài nán lại một thời gian ở nhà Ông Tín (cháu nội ông B́nh).
v
Tin đồn có giáo sĩ ở tại nhà ông Tín, lúc đó vừa là
ông Trùm họ đạo, vừa là ông cả trong làng, đă tới tai chính quyền ở
Lái Thiêu. Có một viên thư lại, khi nghe các người chức trách bàn
tính việc đi bắt cha Quí, th́ khi làm việc về nhà, anh liền lấy ngựa
chạy đến nhà ông Tín v́ anh ta rất có cảm t́nh và là thân chủ của
ông Tín. Ông vừa xin ông Tín hốt thuốc cho mẹ đang đau bụng rên la,
mà cũng vừa báo tin cho ông Tín….Chiều hôm đó, một chiếc ghe xuôi
đường rạch Cây Trâm ra vàm Búng. Khi chạy theo bờ rạch, có người hỏi:
“Anh Hai đi gát quốc ở đâu?” Anh Hai là con cả của ông Tín, anh tên
là Chư trả lời: “Anh này quen biết ở Bà Lụa, rủ đi lên đó để gát”.
Chiếc ghe đă đưa cha Quí xa đất Búng, quê hương thân yêu của Ngài.
v
Tối hôm đó, ông Tổng cùng tốp lính đến nhà ông Tín,
lục soát khắp nơi nhưng không t́m ra giáo sĩ ở đó.
B. GIÁO
DÂN
v
Gia Đ́nh Bà Hảo:
Bà gả con gái của bà, cô Tám, cho một thanh niên ở
Thị Nghè. Cùng đưa cô Tám đến nhà chàng rể, có bà Hảo, cô gái út là
thị Chín, và anh Chất, con trai của bà. Khi đến Vàm Thuật (sông Vàm
Thuật, quận 12)họ bị phát hiện là người công giáo, và bị đày đi Biên
Ḥa, nơi giam những người theo đạo Kitô. Người ta yêu
cầu họ bỏ đạo, nhưng họ không đồng ư. Anh Chất bị kết án lưu đày và
chết ở đó. Hai cô gái, cô Tám và cô Chín bị đánh bằng roi và nhất là
không có ǵ để ăn. Khi chết xong, xác hai cô được một trong các anh
em trai đến nhận và mang về chôn cất tại họ đạo Ghe Tám. C̣n
bà Hảo mẹ của các cô và anh Chất th́ vẫn bị giam chung với
những người công giáo khác cho đến khi trại giam bị đốt cháy (ngày
16/12/1861, 401 giáo dân bị thiêu sống tại Biên Ḥa).
v
Có khoảng 30 người có đạo v́ sợ nhục h́nh nên đă đạp
lên Thánh Giá, và bị đưa đi phân tán ở chung trong làng người lương
để họ theo dơi (chiếu chỉ vua Tự Đức 05/07/1861 ra lệnh phân tán
người Công giáo vào các làng không công giáo).
v
Có hai ông là ông Trí và ông Lơi không chấp nhận hành
vi chối đạo như trên, nên bị bắt và người ta khắc trên má hai chữ
“Tả Đạo” và thả họ ra (Chiếu chỉ vua Tự Đức ngày 07/05/1857 truyền
lệnh phải khắc hai chữ “Tả Đạo” vào mặt những giáo dân không bỏ đạo).
v
Có một số giáo dân đi lên Thủ Dầu Một để lên thuyền
đi lánh nạn ở Sài G̣n. Nhưng ở đây phần v́ dịch tả, phần v́ thiếu ăn,
thiếu chổ ở, nên họ cũng chết nhiều. số c̣n lại th́ mong trở về gia
đ́nh càng sớm càng tốt. ngày 17/02/1859 Pháp chiếm thành Sài G̣n…..nhưng
các nơi xung quanh như Tân Định, Thị Nghè, Chí Ḥa, Hóc Môn, Thủ Đức,
Lái Thiêu, BÚNG th́ vẫn c̣n dưới sự kiểm soát của quan quân triều
đ́nh Việt Nam, cho đến ngày đồn Kỳ Ḥa thất thủ (25/02/1861) th́ họ
mới hết kiểm soát. V́ cho rằng người công giáo tiếp tay với Pháp nên
trong suốt ba năm (1859 – 1862) người có đạo đă lănh chịu không biết
bao nhiêu gian khổ v́ đạo.
v
V́ vậy họ phải rời bỏ xứ Búng chạy về Sài G̣n. Ông
Lêô Nguyễn Văn Quư viết trong “Những họ đạo cổ xưa ở Sài G̣n” trang
149 như sau:”Tại Xóm Chiếu, dân chúng bỏ nhà bỏ cửa chạy hết. ông
Hương Thế qui tụ được vài chục người theo đạo Thiên Chúa, rồi dần
dần, những bổn đạo từ Lái Thiêu, BÚNG, Thủ Đức chạy đến khá đông Ông
Hương Thế cổ động cất một nhà thờ tạm tại rạch Cây Bàng…”
v
Ông Tín, cháu nội ông B́nh và là con của ông Định,
sau khi cho con cả là ông Chư đưa ghe chở cha Quí đi trốn ở Bà Lụa
năm 1858, và gia đ́nh bị lục soát, th́ ông cảm thấy không an tâm.
Ông giao nhà cửa ruộng đất cho ông Chư trông coi, nghề thầy thuốc
giao lại cho học tṛ là Huy. Ông Tín cùng hai con là ông Kính và cô
Kiếm, cùng đứa cháu trai là Hay đi lên Bố Mua tránh họa, định cư ở
xóm Bàu Ao. Bố Mua bây giờ là giáo xứ Vĩnh Ḥa. Ở đây, ngoài nghề
làm thuốc, ông c̣n nói chuyện đạo Chúa cho dân chúng. Ông đă gặp cha
Azémar và cùng nhau lo việc đạo. Theo lịch sử họ đạo Lái Thiêu, th́
vào năm 1867, cha Azémar dựng nhà thờ đầu tiên ở Bố Mua, nhà thờ lợp
bằng tranh. Số giáo dân ở Bố Mua lúc đó là 264 người. Trước năm đó,
ông Tín và con trai là ông Kính lại trở về xứ Búng (Đứa cháu tên Hay
có vợ là con dâu của ông Trùm họ Bố Mua, cô Kiếm cũng có chồng ở Bố
Mua). Ở đây ông Tín đă qua đời và chôn cất tại đất Thánh Búng.
III.
THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP (1862 – 1875)
A.
DÂN DI TẢN TRỞ VỀ BÚNG
Ngày 05/06/1862 kư kết ḥa ước Nhâm Tuất, trong đó
có khoản qui định về tự do tôn giáo, nhưng vua Tự Đức vẫn duy tŕ
việc cấm đạo. Nhà sử học Nguyễn Đ́nh Đầu ghi: Năm 1859, Pháp đánh
chiếm Gia Định. Sau khi kháng chiến thất bại, Huế phải kư hiệp ước
1862 nhượng cho Pháp 3 tỉnh: Biên Ḥa, Gia Định, Định Tường (Mỹ Tho).
v
Nhận thấy t́nh h́nh yên ổn trở lại, giáo dân họ đạo
Ghe Tám, trước di tản về Sài G̣n, th́ nay họ trở về quê cũ. Ngôi nhà
thờ thứ hai đă bị hoang phế từ lâu, không c̣n sử dụng được. Lần này
trở về, họ đă chọn một chỗ định cư và chỗ đẹp nhất để dựng một nhà
thờ khác. Đây là
NHÀ THỜ THỨ BA
ở gần cầu Cây Trâm. Chính vào thời kỳ này mà tên họ đạo Ghe Tám được
đổi thành
HỌ ĐẠO BÚNG
bởi v́ nằm gần cái chợ cùng tên như vậy.
v
Lúc đầu giáo dân chưa có linh mục coi sóc, họ phải đi
đến Thủ Dầu Một để tham dự thánh lễ và lănh các Bí Tích. Theo cha
Martin cho biết, lúc này ở Thủ Dầu Một có linh mục Robert đến giúp
đỡ giáo dân ở đó.
Quyển ONZE
mois de sous préfecture en Basse Cochinchine của Mr Lucien de
Grammont, trang 22 viết : Le Très Réverend P. Robert, chef dela
mission de Thu-yen-mot. Les troubles de 1861 ont rendu souvent les
fonctions pénibles.
Trong báo cáo năm 1930 của GM Delignon có đề cập đến
Thầy Phêrô Nguyễn Thi Đậu
có đến giúp giáo dân ở Búng thời gian nào không rơ.
Thầy Phêrô Nguyễn Thi Đậu sinh năm 1838 ở An Nhơn, học ở Tiểu Chủng
Viện và Đại Chủng Viện ở Péanang (Malaysia). Tàu chở Thầy đi đến
Péanang bị cướp biển, thầy thoát qua tàu khác, tàu này bị băo đánh
tư bề. Nhưng nhờ ơn Chúa, Thầy đă thoát nạn, đến Péanang. Khi về Sài
G̣n, Thầy được sai giúp dạy giáo lư cho Búng và Lái Thiêu…..
·
Năm 1863, Thầy chịu chức cắt tóc do GM Lefèbvre (tên
Việt là Ngăi)
·
Ngày 08/05/1870, chịu chức linh mục do GM Miche (
Mịch ).
·
Năm 1927, về hưu ở Cầu Kho.
·
Ngày 29/05/1930 qua đời ở Chủng Viện Sài G̣n.
B.
CHA LIZÉ:
Khi t́nh h́nh họ đạo yên ổn, Đức Giám Mục Lefèbvre
Ngăi đă sai cha Francois Rémi Lizé đến giúp xứ Búng. Cha Lizé sinh
ngày 08/06/1838, chịu chức linh mục ngày 25/05/1861. Ngày 09/08/1861
Ngài lên đường từ Pháp sang Việt Nam . Và khởi đầu mục vụ của Ngài
là họ đạo Búng (1862). Tuy nhiên, Ngài chỉ là linh mục ở tạm thời
thôi.
C.
CHA GIOAN KHIÊM:
Vào năm 1863, cha Lizé được thay thế bởi cha Gioan
Khiêm để giúp giáo dân họ Búng. Khoảng chừng một năm th́ đêm tối nọ,
người không công giáo đến, họ có ư giết linh mục và đốt phá. Cha
Gioan Khiêm núp trong chiếu trốn sau những cây cột. Những người phá
phách vào nhà, lục soát khắp nơi, dùng giáo đâm mọi chỗ. V́ không
t́m ra cha, nên họ đă đốt nhà thờ và nhà cha ở. Cha Gioan đă chạy
thoát mà không bị đâm trúng cũng không bị đốt cháy. Là linh mục trẻ
mới thi hành mục vụ nên khi gặp biến cố này Ngài bị căng thẳng, sức
khỏe bị tổn hại rất nặng Ngài không thể thực hiện mục vụ tại họ đạo
được nữa. Ngài đă ra đi. Ngài qua đời năm 1869.
D.
VẮNG LINH MỤC (1864 – 1875)
Họ đạo Búng sau đó không có linh mục soi sóc. Nhà thờ
thứ ba cũng không c̣n. Giai đoạn này kéo dài khoảng 11 năm th́ t́nh
h́nh trở nên sáng sủa và thời kỳ h́nh thành họ đạo rơ rệt bắt đầu.
IV.
THỜI KỲ H̀NH THÀNH (1875 ĐẾN NAY)
A.
CHA SỞ ĐẦU TIÊN: CHA ANTÔN NGUYỄN VĂN VƠ
(1875 – 1886)
1.
NĂM 1875 H̀NH THÀNH HỌ ĐẠO BÚNG:
Ngài sinh năm 1837 tại Thủ Ngữ (Sài G̣n) chịu chức
linh mục năm 1866. không rơ Ngài được GM Jean Claude Miche (1864 –
1873) hay GM Isidore Francois Joseph Colombert (1873 – 1894)(thời
của Ngài gần 200 nhà thờ được xây dựng)
sai đi phục vụ họ Búng
từ lúc nào nhưng trong sổ rửa tội đang lưu tại Búng,
th́ ở trang 7, số 14 có ghi:
Cha Antôn rửa tội cho Anna Vô ngày 11/01/1875; Ở
trang 3, số 5 ghi ngày 08/04/1875 cha Antôn rửa tội cho Phêrô Trong,
sinh ngày 06/02/1875 con của Phêrô Núi và Maria Ngọc; Trang 9, số 18
ghi ngày 15/01/1875, cha Antôn rửa tôi cho Gioan Baotixita Lai, con
ông Simon Định và bà Maria Hậu.
Như vậy có thể giải quyết được năm họ đạo Búng h́nh
thành rơ rệt là năm 1875.
Cũng nên nhớ rằng 1875 là năm Thánh của Giáo Hội Công
Giáo khắp thế giới. Trong báo cáo hàng năm 1875, Giám Mục Colombert
đă viết: “Trong giáo hội Tây Đàng Trong có 43.000 giáo dân (40.000
người Việt Nam, Trung Hoa, Châu Á, 3500 người Âu), 36 giáo xứ (Paroisse),
164 họ đạo (Chrétienté), 150 nhà thờ hay nhà nguyện…..Tôi đă chỉ
định hai nhóm 5 hay 6 nhà truyền giáo và linh mục bản xứ lần lượt
đến các giáo xứ. Trong 6, 8 hay 10 ngày tùy theo số giáo dân, các
cha giảng 3 bài mỗi ngày, cho họ xét ḿnh, xưng tội, rước lễ, gỡ rối
các đôi hôn phối, kêu gọi người có tội công khai và bỏ đạo trở về.
Dân Việt chúng tỏ thiện chí đáng khen và cố gắng hết sức để hưởng ơn
toàn xá. Họ ở nhà thờ suốt ngày, và đêm hôm, quên ăn, quên uống.
Suốt dọc đường hay ở nhà, họ giữ thinh lặng khổ hạnh”.Trong biến cố
này, chắc họ Búng cũng không hờ hững và dĩ nhiên phải có linh mục
giúp đỡ. Rơ rệt là theo sổ rửa tội, th́ năm 1875, cha đă rửa tội 54
người: 48 trẻ nhỏ, 6 người theo đạo (5 người lớn, 1 em nhỏ)
Đây cũng là một lư do nữa để khẳng định họ đạo Búng
chính thức h́nh thành vào năm 1875.
2.
NHÀ THỜ THỨ TƯ
Cha Martin ghi: :Cha Antôn xây dựng tại một khu đất
gần chợ Búng, một nhà thờ khá rộng răi, nhưng về sau, với số giáo
dân đông lên, nó trở nên quá nhỏ”
C̣n truyền thống khác chép rằng: “Có ông lái bán cá ở
cầu bà Hai Mọi dưng một phần đất, nên dời nhà thờ về đó (khu đất
chùa Bà ngày nay). Gần nhà thờ có một trường học. Khởi sự từ đây cha
sở là cha Antôn Vơ
Nhà thờ này không tồn tại được lâu, v́ một đêm nọ,
mưa to gió lớn đă thổi sập tất cả, Cha Antôn bị kẹt trong đóng đổ
nát đó, nhưng không bị thương tích ǵ. Sáng hôm sau giáo dân đến dọn
dẹp và đem cha Antôn ra ngoài.
3.
NHÀ THỜ THỨ NĂM
Nhận thấy có nhiều bất tiện, huyên náo v́ gần chợ,
lại thêm gần sông Búng nên cha Antôn đề nghị xây nhà thờ ở địa điểm
khác.
Thời kỳ này giao thông chính yếu ở vùng này là bằng
ghe thuyền (đường thủy), c̣n đường bộ chỉ là đường ṃn, đường đất
nhỏ hẹp. Năm 1880, chính quyền mở đường từ Lái Thiêu phóng thật ngay
đi ngang qua Cây Me, Hưng Định, nhưng tới An Thạnh th́ không rơ lư
do nào mà ngưng lại (cho đến nay- 2007). C̣n đường quốc lộ 13 lúc ấy
là đường ṃn, từ Lái Thiêu qua cầu Mới, đến Cầu Ngang, theo con sông
Búng lên Thủ Dầu Một, th́ được trải đá và hoàn thành năm 1895. Do đó
mới biết nhà thờ Lái Thiêu được xây từ năm 1894 – 1897 quay ra hướng
sông là hướng chính.
Chọn địa điểm xong th́ lo xây cất. Tuy nhiên, theo
truyền tụng th́ nhà thờ thứ Năm này cũng hư hại do băo táp, chi tiết
này không được cha Martin ghi rơ, nhưng Ngài viết cha Thơ (1886 –
1893) kế nhiệm cha Antôn Vơ, “lo xây dựng nhà thờ mới”. V́ nhà thờ
cũ theo ông Linh ghi lại “cũng cất bằng cây lợp lá”.
v
Như vậy địa điểm hiện nay có 2 ngôi nhà thờ: Một do
cha Antôn Vơ, và một do cha Thơ.
1.
VIỆC MỤC VỤ CỦA CHA ANTÔN – CHA SỞ ĐẦU TIÊN:
Theo lời ghi chép của cha Martin, cha Antôn đă để lại
một kỷ niệm rất sống động nơi họ Búng. Giáo dân gọi cha Antôn với
tấm ḷng kính trọng, đầy yêu thương. Cha rất nhiệt thành lo cho ơn
gọi. Thời của cha có tới 20 chủng sinh họ đạo đi chủng viện, cha đă
cung cấp nhiều ơn gọi cho nhà Kín, ḍng Thánh Phaolô, ḍng Mến Thánh
Giá Thủ Thiêm, Chợ Quán.
Việc rửa tội trong những năm cha ở Búng được tổng kết
như sau:
* Năm 1875: Cha rửa tội cho 58 người.
* Năm 1876: Cha rửa tội cho 99 người
* Năm 1877: Cha rửa tội cho 61 người
* Năm 1878: Cha rửa tội cho 73 người
* Năm 1879: Cha rửa tội cho 64 người
* Năm 1880: Cha rửa tội cho 62 người
* Năm 1881: Cha rửa tội cho 78 người
* Năm 1882: Cha rửa tội cho 74 người
* Năm 1883: Cha rửa tội cho 31 người
* Năm 1884: Cha rửa tội cho 34 người
* Năm 1885: Cha rửa tội cho 68 người
* 04/06/1886: Cha rửa tội cho 25 người
Tổng cộng trong ṿng 11 năm, Cha đă rửa tội cho 727
người lớn lẫn trẻ em.
* Về giáo dục, cha Marrtin có viết : Dưới thời của cha
Antôn Vơ, đă có trường học đầu tiên. Thầy giáo dạy cho các em bên
nam là cựu chủng sinh học ở Pinăng (Malaysia). C̣n các em gái th́
cha mời các D́
Mến Thánh Giá Thủ Thiêm
đến dạy. Như vậy, các d́ Thủ Thiêm đă góp công cho họ
đạo từ thời cha Antôn Vơ (1875 – 1886). Không rơ giáo dân lúc ấy là
bao nhiêu, có thể trên dưới 1.000 tín hữu, v́ số liệu năm 1893 nghĩa
là chưa đầy 20 năm (1875 – 1893), th́ báo cáo giáo dân Búng lên đến
1.500 người. Qua những số liệu như thế cha sở rất vất vả.
V́ thế sau 04/06/1886 có lẽ Ngài đă đau yếu nhiều,
cha Nhân đến phụ giúp Ngài lo mục vụ.
Và ngày 06/10/1886, cha Antôn Nguyễn Văn Vơ, Cha sở
đầu tiên của Họ Đạo Búng đă an nghỉ trong Chúa, hưởng dương 49 tuổi.
Ngài đă được an táng phía trước bàn thờ Đức Mẹ trong
ngôi nhà thờ mới. (LM Martin ghi).

Mộ phần cha Antôn Nguyễn Văn Vơ ở phía trước bàn
thờ Đức Mẹ
(bên phải từ cung thánh nh́n xuống).
Tấm mộ bia ghi như sau :
†
HIC JACET
IN SPE RESURRECTIONIS GRORIOSAE
ANTONIUS VƠ
SACERDOS
CONCINCINAE OCCIDENTALIS
Anno Domini 1837 natus
Die 6 mensis Octobris
Anni 1886
DEFUNCTUS
R.I.P
Xin tạm dịch:
†
NƠI AN NGHỈ
TRONG NIỀM HY VỌNG SỐNG LẠI VINH QUANG
ANTÔN VƠ
Linh Mục
Tây Đàng Trong
Sinh năm 1837
Qua Đời
Ngày 06 tháng 10
Năm 1886
Xin cho linh hồn cha được yên nghỉ
2.
CHA SỞ PHANXICÔ TRẦN ĐỨC NHÂN (TẠM THỜI)
Sổ rửa tội Họ Búng ghi nhận : Sau khi cha Antôn Vơ kư
sổ rửa tội lần cuối ngày 04/06/1886 th́ cha Nhân đến giúp và kư sổ
rửa tội từ 11/06/1886 đến 08/10/1886.
Cha Phanxicô Trần Đức Nhân sinh năm 1849 tại Đất Đỏ (Bà
Rịa) chịu chức Linh mục năm 1879 và qua đời năm 1935.
B.
CHA SỞ THỨ HAI: CHA GIUSE MARTINÔ NGUYỄN TRI THƠ
(1886 – 1893)
- Sinh năm 1848 tại Mỹ Hảo
- Chịu chức linh mục năm 1878
- Qua đời năm 1927
Cha Thơ bắt đầu kư sổ rửa tội ngày 23/10/1886 đến
ngày 18/02/1893.
Vậy Cha Giuse Thơ giúp họ đạo Búng được 7 năm.
Cha Marrtin ghi lại như sau : Cha Thơ kế nhiệm Ngài
(cha Antôn Vơ), và lo xây dựng nhà thờ mới. Phải nói rằng đây là
NHÀ THỜ THỨ SÁU
cùng xây trên một địa điểm như nhà thờ thứ năm (do cha Antôn xây).
Có tài liệu nói thêm : Nhà thờ này ông Trùm Tài vẽ mẫu Bằng khoán do
cha Thơ đứng tên. Theo thủ bút của cha Martin để lại : V́ không có
vốn cần thiết (cho việc xây cất) nên Ngài (Cha Thơ) chỉ làm nhà thờ
từng phần, và đă khổ nhọc để lợp xong mái nhà thờ trước khi rời
nhiệm sở 7 năm sau đó. Giáo dân rất tích cực góp công sức nhưng họ
không giàu có ǵ. Lúc đó vài bất động sản của họ đạo phải được bán
đi để lo xây cất, nhưng cũng được một số tiền nhỏ nên cũng góp ít
chứ không nhiều vào công việc của họ đạo.
Nhờ ơn Chúa và sự công tác của nhiều người
NHÀ THỜ THỨ SÁU
này cũng đă được xây dựng xong năm 1888. Ngày nay ở tiền đường nhà
thờ có ghi ḍng chữ ‘AED. 1888 REST. 1953’ (nghĩa là đă được xây từ
năm 1888 và được tu sửa năm 1953).
Khi Cha Thơ đi nhận nhiệm sở mới th́ có hai cha tạm
thay thế.
·
Từ 14/03/1893, Cha
Anrê Thể
kư sổ rửa tội.
·
Từ 31/07/1893 đến 13/11/1893,
Cha Anrê Bửu
kư sổ rửa tội.
C.CHA
SƠ THỨ BA: CHA PHAOLÔ MARCEL SIMON(1893 – 1895)
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA CHA SIMON :
* Sinh ngày 14 hay 16/10/1844 ở Toulon sur Arroux
* Vào chủng viện các cha Thừa sai, 01/10/1866 (đă chịu
chức cắt tóc).
* Chịu chức linh mục 19/12/1868
* 16/02/1869, đi đến Tây Đàng Trong (Sài G̣n) và làm
giáo sư ở chủng viện Sài G̣n.
* 1871 – 1875 : Phục vụ ở họ Cái Bè
* 1875 – 1878 : Phục vụ ở họ Mặc Bắc
* 1879 – 1892 : Phục vụ ở họ Tây Ninh
*
1893 – 1895 : Phục vụ ở họ Búng (lúc 49 tuổi)
* 1896 : Phục vụ ở họ Vũng Tàu
* 1906 : Phục vụ ở Dầu Giây
* Ngày 10/12/1908 : Qua đời ở Sài G̣n, chôn gần mộ Đức
Giám Mục Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine (02/02/1741 –
09/10/1799) (tên Việt
Bá
Đa Lộc) (Lăng Cha Cả) hưởng thọ 64 tuổi.
2.
CÔNG TÁC MỤC VỤ :
Cha Simon xây nhà cha sở. Trước kia đă phục vụ ở Tây
Ninh, nên cha đă mua gỗ từ Tây Ninh về để xây cất. Tuy nhiên, các
vách tường th́ lại cho trét bằng đất và rơm nên mối mọt làm ổ, chẳng
bao lâu th́ đầy nhà.
·
Thời đó các tên thánh rửa tội mà ngiáo dân truyền lại
cho nhau không nhiều, cha Simon đă làm một danh sách các thánh khác
và gắn ngay trên giếng rửa tội, để ai muốn chọn tên thánh nào cho
đứa trẻ rửa tội th́ tùy ư chọn.
·
Khi tham dự nghi lễ phụng vụ, các thanh thiếu niên
thường thụ động. Do đó, cha Simon buộc mỗi người phải mang theo sách
mục lục.
Trong bài tiễn đưa cha Simon qua đời có đoạn viết :
Được gọi trông coi họ Búng với số dân gần 1.500 người, cha bắt đầu
việc mục vụ, đặc biệt quan tâm đến giới trẻ và thiếu nhi rất đông
trong họ.
Ở Búng, cũng như trong các họ đạo mà cha phục vụ, cha
không quên thực hành nghề thuốc miễn phí (Nên biết : Cha đă học
ngành y trước đó NV). Nhất là cha rất tuyệt vời khi chăm sóc bệnh
nhân một cách khéo léo, các người đau đớn v́ vết thương, tất cả các
bệnh ngoài da, không một chút ghê tởm, với một sự nhanh nhẹn tŕu
mến làm an tâm những ai sợ sệt. Cha băng dán vết thương một cách nhẹ
nhàng giống hệt y tá đầy kinh nghiệm. Thật sung sướng khi mỗi sáng
nh́n thấy những đám người lương và người giáo dân đi tới cha và trở
về được sự xoa dịu nhờ sự cứu chữa của cha, được an ủi nhờ những lời
ấm áp và động viên. Biết bao người lương đă nhờ thế biết được Chúa
Trời nhân hậu. Nếu phần đông họ không xin Rửa Tội th́ ít ra họ không
thể không quư chuộng đạo này, mà các mục tử tỏ ra bác ái và thông
cảm những đau khổ của con người.
Cũng v́ vậy mà ĐGM Dépierre chọn cha Simon đi Vũng
Tàu lập một dưỡng đường để các thừa sai mỏi mệt và các bệnh nhân vừa
khỏi bệnh có thể đến nghỉ ngơi. Cha Simon đành rời xa Búng để đi
nhiệm sở là Vũng Tàu vào năm 1896.
D.
CHA SỞ THỨ TƯ : CHA FÉLIX FRISON (HOÀNG) (12/1895 –
1899) :
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :
Ø
Sinh ngày 21/01/1862 tại Argancy, giáo phận Metz
Ø
12/09/1882 gia nhập chủng viện thừa sai, chịu chức
cắt tóc.
Ø
27/09/1885, chịu chức linh mục
Ø
02/12/1885 đi đến giáo phận Tây Đàng Trong (Sài G̣n)
Ø
Năm 1888 – 1891 : Ở họ Tha La, cha Frison hướng dẫn,
giúp phương tiện cho giáo dân khai phá rừng để trồng trọt cày cấy.
Cha đă mở mang nước Chúa từ họ đạo Tha La đi đến thành lập họ đạo
Rạch Gốc, Rạch Thiên.
Ø
12/1895 – 1899 : Cha sở họ Búng
Ø
1899 : Cha sở Mặc Bắc
Ø
1935 : Cha mừng lễ vàng (Kim khánh) linh mục, đồng
thời giáp 100 năm Thánh Marchand Du tử đạo (20/11/1835) ĐGM
Dumortier, 16 thừa sai và 37 linh mục bản xứ tham dự. Tối hôm lễ
mừng có cuộc bắn pháo bông lớn trước 10.000 người đến xem.
Sau khi ở Mặc Bắc cha Frison được đổi về Thủ Dầu Một.
Ngài xây nhà thờ Thủ, là nhà thờ chánh ṭa của giáo phận Phú Cường.
Phải mất nhiều năm và tiền tài của gia đ́nh Ngài, cộng với nhóm thợ
ở Mặc Bắc xây dựng theo mẫu nhà thờ Mặc Bắc. Nhà thờ này được làm
phép và khánh thành ngày thứ tư 23/07/1947
Ø
1939 – 1947 : Cha sở họ Thủ Dầu Một
Ø
29/06/1947 : Qua đời, hưởng thọ 85 tuổi
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ :
Sổ rửa tội lưu trữ tại Búng ghi cha Frison rửa tội và
kư vào sổ từ ngày 12/12/1895 đến ngày 17/02/1900
Ở tại Búng cha đă tô phía bên trong nhà thờ và lát
gạch bông ở cung Thánh. Mua một miếng đất cho họ đạo (cha Martin ghi)
Hiện nay họ đạo Búng c̣n 3 quả chuông, tiếng vang
thánh thót là do công lao của cha Frison.
Ba quả chuông có ghi những ḍng chữ như sau :
CHUÔNG 1
(tiếng trầm, to nhất)
Petrus Nguyễn Công Đàng
Et Martha Lê Thị Đạo ejus sponsa (vợ của ông)
Me Obtulerunt (đă dâng cho tôi)
Búng Hội 1899
Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille

CHUÔNG 2
(tiếng trung, to vừa)
Uno corde et animo fideles
Me Obtulerunt
(Các giáo hữu chung một ḷng và tâm hồn đă dâng cúng
cho tôi)
Búng Hội 1899
Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille

CHUÔNG 3
(tiếng thanh, nhỏ)
Maria Nguyễn Thị Mới
Me obtulit (đă dâng cho tôi)
Anno Domini 1896 (năm 1896)
Engène Baudouin, fondeur à Marseille

Trong kỷ yếu giáo phận Phú Cường (1965 – 2005), ‘Quả
chuông Tây, đường kính 0.70m hiện nay, do ông bà Micae Trần Văn Toán
và Maria Huỳnh Thị Mau dâng cúng, Họ Đạo B́nh Sơn, 1897’. Engène
Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille’
Chắc hẳn là do Cha sở lúc ấy là cha F.Frison đem từ
Pháp về họ nhánh B́nh Sơn. Ngài vừa lắp xong 3 quả chuông th́ được
lệnh đi nhậm xứ Mặc Bắc (1900). Trong khoảng 5 năm ở Búng, cha
Frison cũng đă để lại tiếng vang cho đến ngày nay (2007).
E.
CHA SỞ THỨ NĂM : CHA NICOLAS EMILE COLSON (1900 –
1901)
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :
Ø
Sinh ngày18/11/1846 ở Manoncourt-sur-seille
Ø
15/09/1868 gia nhập chủng viên Thừa Sai
Ø
25/05/1872 chịu chức linh mục
Ø
19/06/1872 đi đến Tây Đàng Trong (Sài G̣n)
Ø
1877 thư kư ĐGM Colombert
Ø
1878 nhậm xứ Cái Nhum
Ø
Đau một vài năm sau đó coi xứ Tân Qui
Ø
1901 Cha sở Họ Đạo Búng
Ø
1903 – 1913 cha sở họ Chợ Lớn
Ø
19/07/1913 qua đời ở Sài G̣n, hưởng thọ 67 tuổi.
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ :
Cha Martin ghi ít ḍng sau đây về cha Colson
‘Cha coi sóc họ đạo này chỉ trong ṿng hai năm. Sau
quay trở lại họ Tân Qui mà trước đó Ngài đă ra đi với nhiều đau
đớn’(Le P. Colson fut ensuite chargé de cette paroisre ̣u il ne
resta que deux ans, et tourna à Tân Qui ḍu il était sorti avectant
de peine).
Như thế cha Colson ở Búng 2 năm, sau đó đến Tân Qui
khoảng 1,2 năm trước khi nhậm xứ Chợ Lớn(1903 – 1913).
Cha Colson kư sổ rửa tội từ 15/03/1900 – 19/10/1901.
F.
CHA SỞ THỨ SÁU : CHA SỞ LOUIS-MARIE JOSEPH MARTIN (NGHI)
(1901 – 1916)
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :
Ø
Sinh ngày 24/08/1851 tại Nimes
Ø
18 tuổi đăng vào quân đội giáo hoàng (chỉ vài tháng)
ở Ư, sau đó giải tán đội binh, Ngài về Pháp
Ø
Sau đó gia nhập Đại Chủng Viện Avignon
Ø
22/05/1875 chịu chức phó tế (Thầy Sáu)
Ø
29/09/1875 vào chủng viên Thừa Sai
Ø
23/09/1876 chịu chức linh mục
Ø
30/11/1876 đến Tây Đàng Trong
Ø
Học tiếng Việt và phong tục tập quán Việt Nam ở họ
Cái Mơn
Ø
1878 coi sóc họ đạo Rạch Dâu
Ø
1885 – 1890 : Coi sóc họ Chợ Lớn
Ø
1890 – 1892 : Coi xứ Bà Rịa, và xây nhà cha sở ở đó
Ø
18 tháng nghỉ ở Pháp v́ đau yếu, Cha Lambert thay
Ngài coi xứ Bà Rịa
Ø
12/1894 – 1896 : Trở lại coi sóc họ Bà Rịa
Ø
12/1896 – 1901 : Hướng dẫn các nữ tu Ḍng Thánh
Phaolô ở Sài G̣n
Ø
1901 – 8/1916 : Cha sở Họ Đạo Búng
Ø
08/08/1916 : Qua đời đột ngột ở Sài g̣n (lúc đi chữa
bệnh)
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ :
*
Việc xây dựng :
-
Xây nhà cha sở hiện nay (1902) :

Một tài liệu ghi rằng Cha xây nhà này bằng tiền của
gia đ́nh Cha ở bên Pháp gửi qua. C̣n Cha th́ không ghi lại ǵ, nhưng
trước khi viết bài khảo sát này, về việc cha sở Giuse Nguyễn Tri Thơ
xây nhà thờ có bán đi một số bất động sản của họ đạo th́ Cha rất lấy
làm tiếc (‘On vendit alors, ce qui est fort regrettable, les
quelques biens fonds de la chrétienté’). Sau này, khi viết về việc
trả lương cho thầy cô ở trường, cha cũng nói : ‘Ở Búng , tất cả tài
sản đă được bán hết cách đây 20 năm khi xây cất nhà thờ’(À Búng,
tours ces biens ont été vendus il ya 20 ans lors de la construction
de léglise). Nhà cha sở được xây dựng trong những điều kiện tốt đẹp,
có một lầu, vào năm1902. Đến nay (2010 ), nhà cha sở tṛn 115 năm.
-
Hai trường học :
1 dành cho năm và 1 dành cho nữ. Các trường này được dựng bằng gỗ
khá tốt và mái lợp tranh. Tô phía bên ngoài nhà thờ (C̣n phía bên
trong nhà thờ trước đó đă được cha Frison tô rồi).
-
Tu sửa pḥng Thánh :
-
Nhà thờ B́nh Sơn (Họ Đạo Búng) :

Trước khi chết (08/08/1916, cha Martin cho xây lại
nhà nguyện phụ (La Chapelle de secours) dưới tên gọi là nhà thờ B́nh
Sơn. Nhà thờ này được thánh hiến trong thể do ĐGM Quinton ngày
21/02/1919 với thánh hiệu ‘Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp’ (24/05)
Trong sổ rửa tội đầu tiên, trang 86, số 169, có ghi
tên Tôma Đoàn Công Tửu, con của ông Raymond Đoàn Công Huy và bà Anê
Nguyễn Thị Nhiệm sinh 03/05/1877, ở B́nh Sơn, Tổng B́nh Chánh.
Như vậy từ thành lập họ đạo Búng, th́ B́nh Sơn thuộc
Búng, nhà thờ được cha Martin cất sau (1916). Đến 19/02/1970 B́nh
Sơn được Đức Cha Thiên chính thức nâng lên giáo xứ, cử cha Giuse
Nguyễn Văn Cung làm cha sở đầu tiên.
-
Việc đi tu :
Cha Martin ghi : Họ Búng đă cung cấp cho Giáo Hội
Miền Nam Việt Nam 12 linh mục, trong đó thật hănh diện có một vị tử
đạo : Chân phước (Á Thánh) Phêrô Đoàn Công Quí (Lúc đó P. Quí được
ĐGH Piô X phong Chân phước ngày 02/05/1909 và bài khảo luận của cha
Martin được viết ngày 10/02/1911…NV). Cháu của Á Thánh là cha P.
Triệu. C̣n có các cha : Gia, Dư, Cậy, Vật (3 cha Gia, Cậy, Vật đă
qua đời khi cha Martin viết bài này), Tự, Quí, Vàng, Trương, Lắm,
Kiểm, Việc (cha Dư mất năm 1883, cha Cậy mất năm 13/01/1902, cha Vật
mất năm 1897).
§
Ở Ḍng Kín có 6 nữ tu :
Ba người chết ở Sài G̣n, ba nữ tu c̣n lại đă đi Hà Nội để lập một tu
viện ở đó. Năm 1895, ḍng Cát Minh (Carmel) Sài G̣n lập ḍng Cát
Minh Hà Nội.
§
Ở ḍng Thánh Phaolô :
có 18 người
§
Ở 2 tu viện Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và Chợ Quán :
Có 15 người.
§
Với những con số trên, họ đạo Búng cho đến thời Cha
Martin có 12 linh mục và 39 nữ tu.
*
Việc đạo đức
Đời cha Simon (1893 – 1895) báo cáo nói họ Búng có
gần 1.500 giáo dân. Đến thời cha Martin viết khảo luận này
(10/02/1911) th́ khoảng 18 năm. Vậy số giáo dân có lẽ đă tăng thêm.
Về vấn đề đạo đức, cha Martin viết như sau (trích
nguyên văn)
‘Có thể chia giáo dân ra thành 3 nhóm’ :
§
Những người sốt sắng :
Tham dự thánh lễ hằng ngày và lănh Bí Tích mỗi tháng hay thường
xuyên hơn. Con số này khoảng 60 đến 80 người.
§
Những người thông thường :
Phần đông giữ luật chung của Giáo Hội và rước lễ 1 hay 2 lần trong
một năm.
§
Những người trễ nải :
Nói chung là giữ đạo bê bối, họ theo đạo v́ cha họ đă theo đạo, và
v́ họ đă được rửa tội rồi. Họ không ngần ngại đi làm việc ngày chủ
nhật (Thời đó, luật buộc nghỉ làm việc xác ngày chủ nhật). Thỉnh
thoảng họ bỏ lễ chủ nhật. Trong số này có khoảng 20 gia đ́nh.
Tất cả giáo dân đều biết những chân lư căn bản của
đạo, nhưng trong nhà, họ ít nói đến việc đạo. Các em nhỏ chỉ có thể
được dạy cho biết đạo khi đến học giáo lư trong các trường họ đạo.
Như tôi đă nói trên, có 60 đến 80 người rưiớc lễ đều
đặn mỗi tháng, 5 hay 6 người rước lễ mỗi tuần, không có ai rước lễ
thường xuyên. Nên biết cha Martin ghi con số như trên về việc rước
lễ, trong khảo luận viết ngày
10/02/1911 v́ trước đó, ĐGH Piô X, ĐƯỢC GỌI LÀ Giáo
Hoàng của Thánh Thể, ra sắc lệnh về Thánh Thể như sau :
v
Sacra Tridentína Synodus (20/12/1905) cổ vơ việc
siêng năng Rước Lễ và Rước Lễ hằng ngày, miễn là sạch tội trọng và
có ư ngay lành.
v
Quam Singulari (04/08/1910) cho phép trẻ em xưng tội
Rước lễ từ khi có tuổi khôn.
Ít người đọc kinh vào ngày chủ nhật. Phần lớn họ đến
khi đọc kinh xong và Thánh Lễ sắp bắt đầu. Các ông chức việc không
làm gương tốt về việc này. Cách chung họ giữ luật kiêng việc xác
ngày chủ nhật.
Về việc sùng kính, cha Martin viết tiếp :
Ø
Thánh Tâm :
Thứ sáu đầu tháng có khoảng 70 đến 80 người rước lễ. Trong tháng
Thánh Tâm (tháng sáu), người ta đọc kinh cầu trong thánh lễ.
Ø
Đức Mẹ :
V́ tháng Đức Mẹ (tháng năm) rơi vào mùa hái măng cụt, và phần lớn
giáo dân là người nhà nông, hoặc là người làm công nhật, nên tất cả
không đến dự được. Người ta làm việc kính Đức Mẹ vào buổi tối, có
khoảng 100 người lớn dự, c̣n trẻ em học tṛ th́ từ 200 đến 250.
Hội Môi Khôi được thành lập trong họ đạo và có 130
thành viên. Trong tuần có vài người đến nhà thờ lần chuỗi và trong
tháng mười (tháng Môi Khôi) có đông người hơn đến lần chuỗi trong
nhà thờ. Mỗi chủ nhật đầu tháng th́ giáo dân đi kiệu Đức Mẹ. Trong
một vài gia đ́nh người ta lần chuỗi trước khi đi ngủ. Trên bàn thờ
Đức Mẹ, có một số của dâng chủ yếu là nến sáp.

Ø
Thánh Giuse :
Hơi bị quên lăng. Ít chăm lo bàn thờ của Người. Trong tháng kính
Người (tháng ba) giáo dân dự thánh lễ đọc kinh cầu Thánh Giuse.

Ø
Thánh Antôn :
Có một tượng của ngài và những ai muốn xin ơn th́ đến dâng cúng, số
tiền này không vượt quá 2 đồng mỗi tháng.

Ø
Các linh hồn trong luyện ngục:
Mỗi thứ hai người ta cầu lễ. Ngày 02/11 đối với toàn
họ đạo là một ngày định ra để đi dự lễ.
Khoảng một nửa giáo dân không xin lễ (cầu hồn) trừ
khi trong nhà có người qua đời, v́ phần đông họ nghèo hay v́ lơ là.
C̣n những người khác th́ họ xin lễ cho một Linh mục duy nhất.
Về giáo lư, Cha Martin nêu rơ :
‘Nói chung các cô gái theo học giáo lư khá tốt. C̣n
thanh niên th́ bỏ học giáo lư từ khi lănh nhận Bí Tích Thêm Sức xong,
khoảng 12 người sẵn sàng tham dự. Một số bà con cũng đến dự lớp giáo
lư này, các ông th́ rất ít.
Các chức việc có khoảng 20 người, nhưng mới có 3 hay
4 người điều khiển đọc kinh tối’.
Về ḷng nhiệt thành :
‘Giáo dân không có địa vị cao, cũng không có tài sản
lớn nên gây ảnh hưởng ít đến lương dân ở quanh họ (phải nói ḷng
nhiệt thành nung đốt họ th́ không sốt nóng cho lắm), nhưng người
lương gần bên họ từ lâu đă biết đến đạo giáo của ta, nếu họ không
theo đạo, chính v́ họ không muốn trở lại’
Về Hội Hài Đồng :
‘Giáo dân ít đi t́m các trẻ em ngoại đạo sắp chết,
nhưng khi họ có dịp gặp chúng, th́ họ sẵn sàng cưu mang chúng. Nếu
trẻ qua bú mẹ, th́ họ sẵn sàng nhận nuôi, nhưng nếu trẻ c̣n bú mẹ
th́ họ gửi chúng đến cô nhi viện ở Lái Thiêu. Khi họ nhận nuôi th́
nói chung họ chăm sóc và đối xử chúng như con ruột của họ"(năm 1910,
Cô nhi viện ở Lái Thiêu được thành lập do cha sở Ernest Verney đến
năm 1954 th́ chuyển các em cho Cô nhi viện G̣ Vấp. Xem lịch sử nhà
thờ Lái Thiêu, trang 21).
Về trường học :
Cha Martin báo cáo như sau :
Ø
Bà Trà :
có 90 giáo dân, không có trường học
Ø
B́nh Sơn :
Có một trường hỗn hợp (nam, nữ học chung) do một Thầy đă có gia đ́nh
đứng lớp. Tiền lương cho Thầy do các gia đ́nh góp lại.
Ø
Búng :
Có hai trường : một dành cho nam và một dành cho nữ. Trường nam do
một Thầy cựu chủng sinh dạy. Ngoài giáo lư, c̣n dạy học, viết và bốn
phép tính. Tuy nhiên, không đạt kết quả nhiều v́ c̣n một số con em
bị lôi đến trường, ngoài ra cha mẹ chúng không thúc giục chúng đi
học và không muốn cho chúng thức ăn giáo khoa. Trường nữ do một ông
Biện đồng nhi dạy. Cũng những môn học như trường nam, nhưng ít dạy
cho viết và làm tính.
Khi việc truyền giáo được chính phủ trợ cấp, th́ các
em nữ được các D́ Thủ Thiêm dạy. Khi không c̣n trợ cấp, tôi (cha
Martin) bắt buộc phải đi t́m thầy dạy trong giáo dân. Nhiều lần tôi
nói với các chức việc để mời các d́ đến dạy, nhưng tôi luôn nhận
được câu trả lời này:
“Bẩm cha, chúng tôi nghèo”.
Để lập khoản tiền lương của các giáo viên, th́ phải đóng góp nhưng
cũng không đủ để trả lương hoàn toàn, cho dù tiền lương của một cô
giáo thật tiết kiệm chỉ có 60 đồng. Có một năm, tôi phải gánh phí
tổn này (năm 1902, chính phủ Pháp hủy bỏ trợ cấp hằng năm về trường
học cho các nhà truyền giáo ở Việt Nam . Xem tiểu sử ĐGM Lucien
Emile Mossard)
Sau năm 1975, chính quyền trưng thu hai trường học
trên, để lập thành trường Tiểu học, trung học.
Đến nay (2007) hai trường này được sửa chữa như sau:
Ø
Tháng 12/2006 trường nữ được sửa thành hội trường của
họ đạo, h́nh thức hai mái, ngói móc, 2 hành lang trước sau vẫn c̣n,
c̣n dàn cây chịu nóc vẫn c̣n tốt.
Ø
Trường nam (sau đài Thánh Quí) trước đó chỉ có hai
căn pḥng, mái ngói móc như trường nữ. Sau năm 1975, Chính quyền
trưng thu làm trường học Tiểu học và đập bỏ nó để xây các pḥng hiện
đại hơn. Hiện nay (2007), trở thành trung tâm học tập cộng đồng, và
vào mỗi chủ nhật các lớp giáo lư vào đời học ở đây, và thành trường
Mẫu Giáo Hoa Mai (2009).
3.
NHỮNG GHI NHẬN VỀ CHA SỞ MARTIN :
Suốt đời cha giữ sự hăng say và tính ổn định của một
chủng sinh. Cha lo việc mục vụ một cách trung thành và được mọi
người kính trọng….Tiết kiệm trong những việc nhỏ, nhưng trái tim Cha
bao la quảng đại đối với những việc lớn lao.
Đức Giám Mục Mossard trong báo cáo năm 1916 có nhắc
đến cha Martin như sau: “Cha
Martin dường như c̣n phải sống lâu dài nhưng đă bỏ chúng tôi v́ cơn
bệnh bất ngờ, chỉ kéo dài 3 hay 4 ngày.” “Đầu tháng 8/1916, Cha đi
Sài G̣n để chữa bệnh đau ngực (angine), mong hết bệnh trở về Họ Đạo
Búng sau một vài ngày trị bệnh, nhưng bệnh tiến quá nhanh, 2 ngày
sau khi nhập viện của bác sĩ Angier, cha qua đời đột ngột ngày
08/08/1916, sau khi đă lănh các bí tích sau cùng.”
4.
CÁC CHA PHÓ TRONG THỜI CHA SỞ MARTIN :
Trong thời Cha Martin phục vụ tại họ Búng, có một cha
phó giúp Ngài. Đó là cha Giuse Quận. Trong khi ở Búng. Ngài đă cho
diễn tuồng “Cố Du tử đạo”(Cố Du sinh 1803, đến Lái Thiêu 1830, có
đến Búng). Cha Phó Quận dựng lầu chuông bằng cây ở bên đài Thánh Quí
bây giờ. Cha qui tụ thanh niên Hưng Định và An Thạnh để giúp việc
nặng nhọc này.
Một Cha Phó khác:
Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Phuông
Ø
Sinh 1861 ở Mỹ Tho
Ø
Linh mục 1897 (lúc 36 tuổi)
Ø
Qua đời 1919 (hưởng dương 56 tuổi)
Ø
Dạy giáo lư rước lễ lần đầu cho ông Nguyễn Thới Linh
năm 1911.
5.
CÁC D̀ TRONG THỜI CHA MARTIN
Năm 1915. Cha Martin (Nghi) xin các D́ Mến Thánh Giá
Thủ Thiêm về giúp họ đạo. Bề trên là d́ Maria Nguyễn Thị Hiếm gửi 2
d́ trong hội ḍng đến Búng là:
Ø
D́ Anna Nguyễn Thị Hải
Ø
D́ Maria Huỳnh Thị Lai.
G.
CHA SỞ THỨ BẢY: CHA ANRÊ NGUYỄN VĂN MIỀU (1916 –
1925)
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ:
Sinh 1863 tại Gia Định, chịu chức linh mục năm 1893,
phục vụ tại Búng 1916 – 1925.
Ngài được phong chức linh mục năm 30 tuổi. Có rất ít tài liệu về
Ngài,
lúc 53 tuổi Ngài được bổ nhiệm làm cha sở họ Búng
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ
Trong suốt 9 năm tại Búng, Ngài đă làm nhiệm vụ của
một chủ chăn nhiệt thành. Đến 63 tuổi Ngài được đổi đi. Năm 1928,
lúc Ngài đă 65 tuổi, Đức Giám Mục Dumortier đă ghi lại như sau:
“Việc mục vụ 1927 – 1928 khởi đầu bằng việc đặt một
linh mục An-nam ở Côn Đảo, nhà tù lớn nhất Đông Dương. Ngày 01/09,
linh mục De Coopman, người đă lo việc mục vụ này vừa là cha xứ nhà
thờ chánh ṭa Sài G̣n, cùng với linh mục Anrê Miều, đáp tàu đến Côn
Đảo, để giới thiệu người mục vụ mới với Giám Đốc trại tù, và xin
phép để cha có thể chăm lo cho những tù nhân. Côn Đảo ở giữa biển,
mất 15 tiếng đồng hồ đi tàu từ Sài G̣n ra đó, và chỉ liên lạc với
Miền Nam 3 lần mỗi tháng…..Trong số 2000 tù nhân, gồm người An-nam,
Cambốt, Trung Hoa, th́ chỉ có khoảng 100 người công giáo, nhưng rất
nhiều công giáo trong số nhân viên dân sự và quân sự để canh gác hay
phục vụ nhà tù; Ngoài ra c̣n hy vọng đưa vào đạo công giáo một số tù
người lương dân, thiếu thốn sự an ủi. Cha Anrê Miều đă có 50 tân
ṭng. Chính quyền đă cho phép cha viếng thăm các trại
tù mỗi chúa nhật, và kêu gọi tù nhân sống đạo đức. Mỗi ngày cha có
thể tự do thăm các bệnh nhân ở các bệnh xá và cha đă rửa tội ở đó 5
người lớn sắp qua đời.”
Như vậy, với con số giáo dân trên 1500 đời cha
Martin, th́ trong 9 năm ở Búng, cha Anrê Miều một ḿnh phải lo toan
về mặt mục vụ cũng khá vất vả….Theo sổ rửa tội c̣n lưu tại họ đạo
Búng, cha đă rửa tội:
Cha Anrê Miều kư sổ Rửa Tội từ 18/09/1916 đến
27/02/1925.
Các d́ Mến Thánh Gía Thủ Thiêm luân phiên đến Búng
trong thời gian cha Anrê là 34 d́.
H.CHA
SỞ THỨ TÁM: CHA ROBERT KELLER
(1925 – 1963)
1.
TIỂU SỬ:
Sau cha Anrê Miều là cha R.KELLER
Robert, Jacques KELLER sinh ngày 18 tháng 02 năm 1885
ở Soultz (Sulz) giáo phận Strasbourg, trong một gia đ́nh công giáo
đạo đức. Gia đ́nh này đă dâng cho Hội Truyền Giáo Paris ba con trai
là :Charles,
Adolphe, và Robert.
Robert học tiểu học ở Soultz. Tháng 10/1899, Ngài bắt
đầu học cấp hai ở học việc Thánh Maria, ở Belfort, và đă hoàn tất
việc học ở đó vào tháng 07/1906.
Ngày 08/09/1906, Ngài vào chủng việc của Hội Truyền
Giáo, ngày 20/09/1907, chịu chức cắt tóc. Ngày 27/09/1908, các chức
nhỏ. Ngày 18/12/1909, chịu chức phụ phó tế. Ngày 12/03/1910 chịu
chức phó tế. Ngày 24/09/1910, thụ phong linh mục (lúc 25 tuổi). Nhận
nhiệm vụ ở Sài G̣n, Ngài đă đến vào ngày 11/12/1910. (sau 3 tháng
lănh chức linh mục).
Khi đến Đông Dương, Ngài gặp lại 2 người anh : Cha
Charles, người anh cả đang làm việc trước đó một vài năm ở Cambốt.
C̣n cha Adolphe, anh kế th́ trước đó 3 năm đă làm việc ở Sài G̣n.
Người anh này đă bị sát hại ngày 02/01/1946 ở Cái Bè, và nơi này cha
Adolphe đă xây một nhà thờ đẹp nhất Nam Kỳ.
Cha Charles Keller sinh ngày 03/10/1876, thụ phong
linh mục ngày 24/06/1900, đi Cambốt ngày 25/07/1900. Năm 1902, về Cô
co, Sóc Trăng. Năm 1921, quản trị Sóc Trăng, qua đời tại Sóc Trăng
ngày 22/10/1953, thọ 77 tuổi.
Cha Adolphe Keller sinh ngày 24/12/1877, thụ phong
linh mục ngày 22/06/1902, đến Việt Nam 30/07/1902. Sau khi học tiếng
Việt, cha được nhận nhiệm sở Cái Bè.
Năm 1930, bắt đầu xây nhà thờ.
Ngày 24/12/1945 bị bắt dẫn đến đồng trồng cây cói và 2 tuần sau đó,
bị sát hại ngày 02/01/1946, thọ 69 tuổi.
Ø
Đức Giám Mục Mossard đưa nhà truyền giáo R.Keller đến
Cái Mơn, họ đạo này có hơn 5000 tín hữu , để Ngài học tiếng Việt, và
làm quen với phong tục tập quán xứ sở. Cha Robert đă sống ở đó năm
1911 và 1912.
Ø
Năm 1912 – 1913 Ngài ở Phú Hiệp gần Cái Mơn
Ø
Năm 1913 – 1914 Ngài đi đến Cấp St.Jacques (Vũng Tàu).
Ø
Năm 1914 – 1916 Ngài phục vụ Cau – Ngan
Ø
1916 – 1919 Ngài phục vụ Mai Phốp, gần Băi San.
Ø
Năm 1919 – 1922 Ngài ở Cái Bè
Năm 1921 lúc 36 tuổi Ngài bị đau nặng, và đầu năm
1922 Ngài buộc phải trở về nước Pháp và ở đó hai năm.
Ngày 31/12/1924, khi trở lại xứ truyền giáo, Ngài
được chọn làm cha quản hạt và là cha sở họ Búng, lúc đó Ngài 39 tuổi.
Họ đạo Búng là một họ tốt với 2000 tín hữu, cách Sài
G̣n 24 km và
Ngài ở lại Búng cho đến chết ngày 17/06/1963, thọ 78
tuổi.
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ:
a.
THEO SỔ RỬA TỘI C̉N LƯU TẠI HỌ BÚNG
Cha Anrê Miều rửa tội cho Tôma Nguyễn Văn Đỏ ngày
17/02/1925. Cha Robert Keller bắt đầu rửa tội cho Anrê Nguyễn Văn
Sáu ngày 28/02/1925.
Vậy cha R.Keller đă ở Búng từ tháng 02/1925
đến07/06/1963 (38 năm)
b.
CHA R. KELLER XÂY CẤT RẤT NHIỀU
Ø
Nhà thờ Bến Sắn bị hư hại trong thế chiến thứ hai.
Ø
Nhà thờ Bà Trà xây cất năm 1941, nay (2007) vẫn c̣n.
Năm 2009, cha Micae Hoàng Đô Đốc, MF, đă xây mới ngôi nhà thờ khác
lớn hơn.

Ø
Nhà thờ Long Cầu, bị sập trong chiến tranh
Ø
Nhà thờ Bố Mua (Vĩnh Ḥa)
Ø
Tháp nhà thờ B́nh Sơn
Ø
Nhà thờ Búng đă được xây từ năm 1888.
Đến năm 1953, cha R. Keller cho sửa lại: Bỏ 2 hiên có
mái lợp chung quanh nhà thờ, thay kính màu ở cửa sổ, làm trần nhà
thờ bằng gỗ Bời Lời, gỗ Sao từ Bến Sắn đem về, và tô bên ngoài các
lối đi ở giữa và bên nam nữ được lót gạch bong, ba bàn thờ trong nhà
thờ được sửa chữa lại hoàn toàn.
Ngày 04/09/2005, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn
Tốt, sứ thần Ṭa Thánh tại Cộng Ḥa Trung Phi và Tchad đă cung hiến
nhà thờ và bàn thờ giáo xứ Búng.
v
Tháp nhà thờ Búng
là công tŕnh được xây cất năm 1956 kiểu tháp được sao chép lại tháp
chuông ở nhà thờ Cái Bè, nơi người anh của Ngài là cha Adolphe
Keller đă phục vụ.
Toàn họ đạo kẻ của người công, chung sức làm việc,
dưới sự chỉ huy của ông Phêrô Nguyễn Văn Vui (1902 – 1969)(Cha của
ông Sướng, Sáng (Lung), các d́ Sáu, Vân, Tùng, ông nội của Linh mục
Giuse Nguyễn Công Danh , giáo phận Đà Lạt,). Tháp này cao 42 mét.
Trước đó tháp chuông bằng cây được dựng ở đất đài
Thánh Quí bây giờ. Khi tháp xây xong, th́ đưa 3 quả chuông về tháp
mới ngày lễ Đức Giêsu là Vua (theo lời một thợ xây tháp kể lại). Khi
xây tháp, Ông Phêrô Nguyễn Văn Chấn (hai Chấn, nhà ở trước nhà thờ)
là thợ đang ở trên cao (khoảng 20 mét) ngồi trên tấm ván để cột kẽm
th́ một cái ky hồ rớt trúng xuống, ông bật ngữa ra sau, và may thay
có một cái cây ở sau lưng chịu ông lại….và sau đó ông trèo xuống đất!.
v
Đài Thánh Quí:

Sau những tháng xây cất th́ dựng tượng Thánh Quí.
Tượng Thánh Quí được xe cẩu đưa lên theo chiều thẳng đứng và để ngay
trên bệ xây sẵn. Phía sau lưng bức tượng có một khoảng trống, để các
thợ hồ đem gạch thẻ chất vào trong bức tượng.
Ngày 17/02/1960, Đức Giám Mục Simon Ḥa Nguyễn Văn
Hiền, ở Sài G̣n đă làm phép tượng Thánh Phêrô Đoàn Công Quí, có đông
các linh mục và giáo dân đến dự lễ tôn vinh Thánh Quí, người linh
mục đầu tiên của họ đạo Búng đă anh dũng hi sinh (1826 –
31/07/1859).
v
Hang núi Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes):

Cũng do cha R. Keller xây cất nhưng không rơ năm nào.
v
Nhà các d́ Mến Thánh Giá Thủ Thiêm :
Theo tài liệu của hội Ḍng, khi nói về ‘BÚNG’ có ghi
như sau :
‘Trong khoảng thời gian cha R. Keller coi sóc họ đạo
Búng, đă có rất nhiều chị em luân phiên nhau đến cộng đoàn Búng phục
vụ….Chính cha đă giúp xây ngôi nhà gạch, mái ngói mà các chị đang ở
hiện nay.’
Lưu ư :
Mái lợp ngói móc, gạch thẻ xây tường dầy 20 cm, nhà cao ráo, rất mát
mẻ. Ngày 13/07/2006 Hội Ḍng đă cất một ngôi nhà khác hiện đại hơn,
thay cho ngôi nhà do cha Keller cho xây..
c.
CÔNG VIỆC KHÁC :
Bên hông nhà thờ Búng trước năm 1945 có một ngôi nhà
làm mủ cao su. Nhà này bị đốt cháy vào năm 1946, nay không c̣n.
Cha R. Keller đă trồng xung quanh nhà thờ nhưng cây
sao. Đến nay (2007) c̣n lác đác một vài cây.
Đất đai nhà thờ cũng nhiều. Cha cho giáo dân ở để qui
tụ họ lại dễ dàng cho công việc mục vụ. Sát cạnh nhà thờ, ở mỗi bên
cũng có ba nhà giáo dân ở.
d.
ĐÀO TẠO CON NGƯỜI :
*
Đào tạo thiếu nhi :
v
Việc đạo đức
Các thiếu nhi trong họ đạo phải học giáo lư Rước Lễ
lần đầu, Thêm Sức và Bao Đồng. Việc này do các d́ Mến Thánh Giá Thủ
Thiêm phụ trách.
Mỗi ngày chỉ có một thánh lễ vào buổi sáng, nên các
học tṛ từ lớp năm đến lớp nhất (bây giờ từ lớp một đến lớp năm) sau
khi tan học ban chiều th́ vào nhà thờ đọc kinh, viếng thánh thể.
Các thiếu nhi trong thời kỳ này siêng năng dự lễ, nhờ
các d́ khuyên bảo và hướng dẫn là chính yếu.
v
Việc học vấn :
Có hai ngôi trường :
Một gần nhà các d́, một ở gần nhà cha sở. Các con em
trong họ đạo được dạy học cấp tiểu học từ lớp năm đến lớp nhất. Các
d́ rất nhiệt thành lo cho các em. Theo thống kê của hội ḍng, 38 năm
cha sở Keller ở họ Búng. Hội Ḍng đă gửi 87 d́ và cô của hội ḍng
đến đây, để dạy đạo và dạy học.
Đào tạo ơn kêu gọi :
Họ đạo có truyền thống đạo đức tốt, do được các d́
hướng dẫn từ nhỏ, nên có nhiều ơn gọi trong số các thiếu nhi nam
cũng như nữ.
Nói riêng về các linh mục được thụ phong trong thời
cha R. Keller là 12 linh mục và sau khi cha Keller mất th́ lại trổ
hoa linh mục thêm 5 người nữa.
về số nữ tu, có lẽ cũng trên 100 người.
3.
CÁC CHA PHÓ (THỜI CHA KELLER)
Có tất cả 9 cha phó giúp cha Keller để phục vụ họ đạo :
1)
Cha Gioan Baotixita Dưỡng (1929 –
1930)
2)
Cha Carôlô Nhơn
(1930 – 1934)
3)
Cha Tôma Trí
(1934 – 1935)
4)
Cha Giuse Công
(1935 – 1938)
5)
Cha Phêrô Cầu
(1939 – 1943)
6)
Cha Matthêu Luật
(1943 – 1946)
7)
Cha Phêrô Th́
(1946 – 1951)
8)
Cha Giuse Kinh
(1951 – 1952)
9)
Cha Tôma Sum
(1952 – 1963)
V́ không có tài liệu nên chỉ ghi những ǵ giáo dân kể
lại.
a.
ĐỜI CHA G.B DƯỠNG (1929 – 1930)
Ngày 19/12/1929 ĐGM Dumortier đến họ đạo để ban bí
tích Thêm Sức cho 174 con em. Họ đạo tổ chức đón rước Đức Giám Mục.
Ngài đi bộ khảo giáo lư các thiếu nhi. Ông Út Hiếu kể lại :
Các em đứng đón Đức Cha ở ngă ba Đất Thánh (bây giờ
là ngă tư Bà Lè), Đức Cha đi bộ khảo giáo lư.
Đức Cha hỏi một em : ‘Đức Thánh Phapha (Đức Giáo
Hoàng) ở đâu’ ?. Em đó thưa : ‘Dạ thưa ở nhà tạm’
Lúc đó cha phó G.B Dưỡng đi phía sau Đức Cha và cha
sở Keller cố gắng nhắc nhở các em.
Sau đó Đức Cha ra viếng họ B́nh Sơn. Cha Tuần, cha
Phương ?? có bài mừng Đức Cha, cha sở Keller, cha phó G.B Dưỡng.
Bài cám ơn của họ đạo nhân dịp này được ông Út Hiếu
ghi lại như sau :
Nay hiệp nhau trẻ già lớn nhỏ
Tặng đôi lời cúi tỏ cảm ơn
Công Đức Cha biết lấy chi đền
Nguyện Chúa cả thường sinh xuống phước
Sau dâng kính chúc mừng cha sở
Trước quới chức cùng là bổn đạo
Để trong long tích nhớ muôn đời…
Sau dâng kính chúc mừng cha phó
Mấy tháng nay công khó ra vào
Lời cha giảng dường bằng lửa đốt
Đốt ḷng con nên thánh nên người….
b.
ĐỜI CHA MATTHÊU LUẬT (1943 – 1946)
Năm 1943, Cha tổ chức diễn tuồng giáng sinh. Cha
cùng với ông ba Thượng ( ba của bà Hoa, ông Phẩm, Trực, Trung, và
Thạnh) lập ra ban hát nam. Cha cùng với ông Ba lập ra đội banh của
họ đạo, khiến cho họ đạo vang tiếng một thời về việc này.
Hiện nay, ca đoàn họ đạo c̣n hát bài
DÂNG L̉NG
do cha sáng tác để tôn kính Thánh Tâm, bổn mạng của họ đạo. Bài hát
có 3 bè : Soprano, Alto và Basso, cung Đô trưởng và chuyển cung Đô
thứ ở giữa bài. Bài này hay, cảm động, là đặc sản của ca đoàn Búng.
c.
ĐỜI CHA PHÊRÔ TH̀ (1946 – 1951)
Thường xuyên tổ chức rước kiệu Đức Mẹ. Dịp lễ Giáng
Sinh, thường có kiệu Chúa Hài Đồng. Cha Phêrô thích bắn chim, ghét
đánh bài. Có lần cha gặp một người trai tráng Công Giáo đang chơi
bài, Ngài đă ‘phết’ cho máy roi.
v
Về kịch nghệ
Cha Phêrô với sự cộng tác của ông Năm Qua (gọi là
thầy Năm Qua, em của ông Hai Chính, cha Từng (Tuần) ông Tư Ngự) đă
cho ra mắt các vở tuồng sau :
Ø
Tết
1949 diễn
tuồng : Quan Thành Đức (tập 1), Lăo Hà Tiện
Ø
Tết
1950
diễn tuồng : Quan Thành Đức (tập 2) Sébastianô tử đạo, Gỡ mặt nạ
người phi nghĩa.
Ø
Tết
1951 :
Utakiô, Vitô tử đạo
Ø
Tết
1952 :
Thánh Alêxù , Lăo triệu phú
Đoàn kịch có những chuyến đi diễn : 1950 ở Lái Thiêu,
1952 đi diễn ở Bà Chiểu. Thầy Năm Qua cũng qui tụ thanh niên, lập ra
đội kèn đồng với khoảng 10 nhạc công.
d.
ĐỜI CHA TÔMA NGUYỄN VĂN SUM (1952 – 1963)
1)
TIỂU SỬ :
Sinh năm 1925 trong gia đ́nh có 5 người con: 4 gái (là
chị) và 1 trai (cha Tôma, con trai út, duy nhất)
Ø
Thụ phong linh mục ngày 29/03 1952
Ø
Làm cha phó ở Búng từ 1952 – 1963.
một giáo dân kể rằng khi cha đến Búng, chỉ xách có túi đồ, đi bộ vào
mà không ai biết.
Ø
Cha sở Dầu Giây 1963 – 1968
Ø
Cha sở Biên Ḥa 1968 – 1998
Ø
Về hưu 1998 – 2006
Ø
Qua đời tại Biên Ḥa, thứ Ba 24/10/2006, hưởng thọ 81
tuổi.
Lễ tang của Ngài có 2 Giám Mục là Đaminh Nguyễn Chu
Trinh- GM Xuân Lộc, và GM Tôma Nguyễn Văn Trâm – GM Bà Rịa – Vũng
Tàu, và trên 100 cha đồng tế, với đông đảo tu sĩ và giáo dân tham dự.
Ngài được đi an táng ở đất thánh ‘Chúa Chiên Lành’ (dành
cho các cha ở Giáo Phận Xuân Lộc) ở Thái Ḥa, cách Biên Ḥa 10 km.
2)
Ở HỌ BÚNG (1952 – 1963):
Trong
11 năm làm cha phó ở Búng
(lúc này cha Keller đă 67 tuổi). Cha Tôma rất tích cực lo toan mọi
việc. Có thể tóm tắt như một giáo dân đă nhận xét về cha như sau :"Cha
vui tính, thích hoạt động, cha vẽ cũng khá. Cha sáng tác nhiều bài
cho các vở tuồng, và một số bài thánh ca. Cha làm văn xuôi, văn vần
rất hay. Cha tổ chức các lễ lớn rất trọng thể và chu đáo, đặc biệt
là các cuộc rước kiệu. Các vở tuồng thời ấy th́ nay khó tổ chức lại
được, v́ rất hao tốn và nhiều công sức’.
Cụ thể cha Tôma đă để lại tại Búng :
1.
45 bài thánh ca với bút danh Đức Hiệp.
Đa số các bài hát có chủ đề về Bí Tích Thánh Thể và Đức Mẹ Maria.
Các bài được sáng tác 2 bè. Có một bài tựa là ‘Hỡi
đất trời ca tấu lên’
hát về tông đồ đang thịnh hành ở xứ Búng.
2.
11 vở tuồng ( dài khoảng 2 tiếng đồng
hồ/mỗi tuồng) hiện nay Ông Út Vincent Nguyễn Văn Thơi đang giữ.
Những vở tuồng này thường được diễn vào dịp tết, tối mùng 1 – 2 – 3
để gây quĩ, lo các cuộc rước kiệu, và các việc mục vụ khác.
Ø
1954 : 2 tuồng : Giáo hội như thuyền trên sóng, Hai
con đường
Ø
1955 : 2 tuồng : Bánh và Đạo, Phút chia ly
Ø
1956 : 2 tuồng : Thánh Alêxù, Bên nấm mồ mẹ
Ø
1957 : 1 tuồng : Tổ phụ Giacốp
Ø
1958 : 1 tuồng : Ba giọt máu hy sinh
Ø
1959 : 1 tuồng : V́ nghĩa quên ḿnh
Ø
1960 : 1 tuồng : Tiếng phán qua bao thế hệ
Ø
1961: 1 tuồng : Lời trối trên đồi Can-va
Trường học gần nhà các D́ là nơi diễn tuồng, các lớp
được phân ra bằng những tấm ván, khi diễn tuồng th́ dẹp ván và có
một hội trường lớn. Khán giả thời đó không chỉ là người có đạo, mà
cả những người lương cũng đến xem rất đông. Thời đó, cha sở Keller
không cho con gái diễn tuồng chung với con trai do đó nhiều thanh
niên nam rặt đă giả gái rất thành công. Nhiều xảo thuật tinh vi đă
được áp dụng trong các vở tuồng, nên khan giả rất tán thưởng. Chẳng
hạn cảnh quỷ bay lượn lên xuống, hỏa ngục đỏ rực, cảnh trả lại đôi
mắt cho người mù từ tay thiên thần bằng cách cho đôi mắt bay từ
thiên thần đến cặp mắt người mù….vô cùng hấp dẫn.
3)
VỀ NHỮNG CUỘC RƯỚC KIỆU
Mỗi năm có 3 cuộc rước kiệu trọng thể:
Lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa:
Giáo dân bằm cỏ rải trên đường kiệu, tô điểm bằng
những hoa phượng đỏ, làm thành tấm thảm suốt đường kiệu dài, để cha
sở cầm Ḿnh Thánh Chúa đi trên đó. Ở những chỗ kiệu quan trọng, cha
Tôma cho làm những động to (giống như của tam quan) bằng vải sơn
vàng, khắc chữ, vẽ h́nh, khung bằng cây rất đẹp. Khi kiệu th́ chuông
trống thay phiên khắc, ḥa với tiếng hát suốt cuộc rước.
Rước kiệu Đức Mẹ (Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
08/12)
Rước về đêm, nên cần đèn là chính, ở mỗi chỗ quan
trọng có những cái động to (dán h́nh, chữ, đèn bên trong) rất rực rở.
Không lần nào kiệu mà không có ít nhất n5,6 cái động như thế. Ở chỗ
dừng chân th́ có đài cao, trang hoàng lộng lẫy.
Rước kiệu Chúa Hài Đồng:
Cũng như rước kiệu Đức Mẹ, ngôi sao dọc theo đường
kiệu, bên trong đốt nến, khoảng vài trăm cái. Khi đi kiệu, có bắn
trái sáng rất nhiều (pháo thăng thiên, hỏa châu).
Cũng nói thêm rằng:Những
cuộc rước kiệu này là truyền thống có từ thời trước khi cha phó Tôma
về xứ Búng.
Ø
Năm 1942, đời cha phó Phêrô Cầu, có cuộc rước kiệu
Đức Mẹ ra khỏi nhà thờ, đi đến ngă ba Bến Bụi (đường vô ḷ chén Chùm
Sao), rẻ trái về đường nhà bà bảy Khá (Cô của Ông hai Kỉnh, cha Đức
và Cha Khâm). Đến trại của ông Trang (khu đất nhà ông sáu Trực), có
một cổng chào tam quan lớn, trang trí công phu, khi bàn kiệu đến,
dừng lại, một dàn pháo bong rực rở bắn lên trời, hiện h́nh Đức Mẹ
chấp tay, 2 Thiên Thần chầu và ở dưới chân Đức Mẹ có chữ Ave Maria.
Ø
Đời cha Phêrô Th́ (1946 – 1951) cuộc rước kiệu đă đi
lên ngă ba Dốc Sỏi, ṿng trái đi thẳng về chợ Búng. Tại Chợ Búng, có
một đài rất lớn, lộng lẫy công phu thu hút rất nhiều người xem và
than phục. Sau đó đi đến cầu Bà Hai và quẹo về nhà thờ.
Ø
Ngoài ra, hằng tháng, buổi chiều chủ nhật đầu tháng
lúc 3 giờ, có kiệu Đức Mẹ ṿng quanh nhà thờ, sau đó chầu phép lành
trọng thể.
Tóm lại, vào thời cha Keller và 9 cha phó, từ năm
1925 đến 1963, họ Búng có nhiều cái đáng nhớ.
Sự cộng tác của hàng Quới chức ( Trùm, Câu, Biện) rất tích cực. Mọi
tổ chức lễ lớn đều có mặt quới chức: Chỉ huy là cha phó, thực hiện
là quới chức và thanh niên. Khiêng kiệu lộng Thánh Thể là quới chức (Khăn
đóng, áo dài đen, quần trắng, vai đeo băng quới chức). Khiêng kiệu
Đức Mẹ th́ do các cô trong Hội Con Đức Mẹ. Xin tiền Hội Thánh Phêrô
th́ do các ông trong Hội đảm trách. Chính quới chức là người giữ kẻ
liệt và đưa các cha đi kẻ liệt. Tổ chức chuẩn bị kịch nghệ, rước
kiệu từ vài tháng trước. Cộng tác rất tích cực, cha con luôn hồ hởi,
chung nhau làm việc, chung nhau lo cho họ đạo.

4.
NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI CHA KELLER
Ngày 22/09/1960, nhân dịp kỷ niệm 50 năm linh mục (lễ
vàng, Kim khánh linh mục)
và 35 năm làm cha sở họ đạo Búng.
Đức Giám Mục Sài G̣n là Simon Ḥa Nguyễn Văn Hiền đă đến họ đạo,
cùng với khoảng 40 linh mục (các cha M.E.P cũng khá đông), nhiều tu
sĩ nam nữ, các quới chức và vô số giáo dân đến nhà thờ mừng Cha Sở,
lúc này Ngài đă già yếu, 75 tuổi rồi. Sau thánh lễ, tiệc mừng Ngài
được tổ chức tại trường học (gần nhà D́). Đây là những ǵ Thiên Chúa
và giáo hữu muốn trả ơn cho cha lần cuối, bởi v́ sau đó Ngài rất yếu.
Trong một thánh lễ Phục Sinh lúc nữa đêm về sáng. Ngài đă ngất xỉu,
và cha phó Tôma phải thay thế. Cũng nên nhớ lại, thời đó việc giữ
chay rước lễ rất ngặt, phải trước 3 tiếng đồng hồ, do đó đă già lại
đau yếu, mà cha sở c̣n dâng Thánh lễ bằng tiếng La tinh hát trọng
thể….. nên không chịu nổi.
Năm 1961, Ngài đau nhiều nên đi dưỡng bệnh ở bệnh
viện Saint Paul ở Sài G̣n, lúc đó cha Delagne (MEP) cũng đang ở đó
hưu dưỡng. Giáo dân thường xuyên đến đó thăm Ngài. Nhận thấy không
cần săn sóc ǵ đặc biệt, nên giáo dân đưa Ngài về họ đạo và chăm sóc
Ngài. Lúc này cha Keller đă lẫn lộn rất nhiều. Hằng ngày, Ngài
thường đi lên Đất Thánh, mặc áo ḍng đen trơn, chống gậy, tay cầm
chuỗi và đi. Có lúc Ngài khỏe, vài ông Quới chức đề nghị Ngài xin về
Pháp để tịnh dưỡng,
Ngài nói: “Ở bên đó không c̣n ai, nếu Cha chết th́
cha chết ở đây”.
Vào một sáng ngày chủ nhật, tháng 11/1961, có trận
đánh bót ở trước nhà thờ, khi nghe nhiều tiếng súng nổ, cha đă ra
trước hiên nhà cha sở và quát to: “Vậy mà đừng có bắn nghe không ?”
Vào tháng 5/1963, Ngài kiệt sức, giáo dân lại đưa
Ngài vào bệnh viện Saint Paul ở Sài G̣n. Ngày chủ nhật 02/06/1963,
cha Dozance Bề trên Miền, ban các bí tích sau hết cho Ngài. Thứ tư,
Ngài được đưa trở về họ đạo Búng. Các quới chức thay nhau chăm sóc
và trông coi Ngài cả ngày lẫn đêm.
Ngày thứ hai 17/061963, Ngài đă nhẹ nhàng trút hơi
thở cuối cùng. Tiếng chuông báo tử đă vang lên. Nỗi buồn to lớn lan
khắp họ đạo. Cha sở Robert Keller sau khi đă phục vụ 38 năm tại Họ
Đạo Búng đă vĩnh viễn ra đi. Giáo dân chạy đến đông nghẹt để nh́n
cha sở than yêu của ḿnh, nước mắt ràn rụa.
Ngày thứ ba , 18/06/1963,. Đức Tổng Giám Mục Phaolô
Nguyễn Văn B́nh (nhận giáo phận ngày 02/04/1961) thay cho Đức Cha
Simon Ḥa Nguyễn Văn Hiền, các cha Dozance, de Monjour, Remand,
Troger, và nhiều linh mục Việt Nam, cùng cả Họ Đạo Búng, tham dự
nghi thức tẩn liệm cha cố Keller, và di quan vào trong nhà thờ. Hai
ngày trong nhà thờ mà cha suốt 38 năm đă từng dâng lễ, giảng dạy, và
qú cầu nguyện mỗi trưa trước giờ cơm (đến nỗi, ghế qú của Ngài đă
có hai vết lơm xuống ) với bao người đến cầu nguyện và kính viếng.
Ngày thứ năm, 20/06/1963, Thánh lễ an táng do Đức
Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn B́nh cử hành. Các cha và các thầy
thuộc gốc Họ Búng đều có mặt để tiễn đưa người cha đă hướng dẫn ḿnh
đi theo ơn gọi. Các nữ tu gốc Búng rất đông đến để tiễn đưa cha già
đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Thật vậy, từ nay, Cha cố Robert Keller luôn an nghỉ
bên đoàn con mà cha đă từng dẫn dắt và lo toan từ việc đạo đến việc
đời. Ngôi mộ của cha được đặt trước đài Thánh Quí, đẻ con cái trong
họ đạo khi đi qua lại đều biết rằng có một người Linh mục ở Pháp
thuộc Hội Truyền Giáo Paris (MEP),
đă ở đây phục vụ 38 năm với tất cả nhiệt t́nh của mục
tử đối với đàn chiên họ Búng.

Mộ phần Cha cố Robert Keller nằm trong khung viên
tượng đài thánh linh mục Phêrô Đoàn Công Qúi,
ngay phía bên phải từ cổng nhà thờ vào.

“Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hăy vào hưởng niềm
vui của chủ ngươi”(Mt25,21)
I.
CHA SỞ TẠM THỜI PHANXICÔ-X TRẦN NGỌC DƯƠNG
Ø
Sinh : 15/09/1926
Ø
Qua đời :18/03/1991 tại Tân Qui, Giáo phận Sài G̣n.
Ø
Sổ rửa tội được cha kư từ 11/02/1963 đến 17/06/1963,
có 41 người.
Ø
Sổ hôn phối được cha kư từ 20/02/1963 đến 10/05/1963,
có 5 đôi hôn phối
Ø
Cha phục vụ tại Búng chỉ 4 tháng, việc mục vụ đạo đức
cho giáo dân là chính.
J.
CHA SỞ THỨ CHÍN : GIOAKIM NGUYỄN VĂN NGHỊ (1963 –
1966)
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
Ø
Sinh năm 1917 tại Lái Thiêu
Ø
Chịu chức linh mục : 1945
Ø
Từ trần tại họ đạo Tha La :15/07/1995, hưởng thọ 78
tuổi
Ø
Sổ rửa tội Búng được cha Gioakim kư từ 05/07/1963 đến
09/06/1966
Ø
Sổ hôn phối họ Búng được cha Gioakim kư 06/07/1963
đến 11/06/1966
Ø
Theo niên giám Công Giáo 1964, sô giáo dân ở Búng là
2.540 người.
2.
CÔNG TÁC MỤC VỤ
*
Tôn ‘Nữ Vương Gia Đ́nh’
ở mỗi gia đ́nh. Mỗi nhà trong họ đạo đều được cha và hội Legio đến
đọc kinh và tôn Nữ Vương
*
Tôn ‘Thánh Tâm’
th́ tùy gia đ́nh. Nếu muốn th́ xin cha và hội đoàn đến gia đ́nh.
*
Thành lập hội Legio Maria:
Lần đầu tiên họ đạo Búng có hội đoàn này do cha
Gioakim thành lập. Hội đă hoạt động khá lâu và đem nhiều thành quả
tâm linh cho giáo dân.
*
Lập trường Trung học:
Để phát triển dân trí con em trong họ đạo, cha sở đă
thành lập trường trung học. Để thành lập trường, cha đă dời các nhà
giáo dân ở trong khuôn viên nhà thờ. Trong số 5 nhà ở đó th́ 3 nhà
đă dời đi nơi khác, c̣n 2 nhà vẫn c̣n ở lại. Cha đă xây dựng một
trường có 2 pḥng lớp kế bên nhà D́ Mến Thánh Giá. Các lớp khác th́
học ở trường phía sau Đài Thánh Quí. Khi cha được đổi về Tha La th́
ngưng việc này.
*
Phát triển ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ
Thời cha Gioakim ở Búng, Ngài rất quan tâm đến việc
kêu gọi thanh niên nam nữ dâng ḿnh cho Chúa. Các chủng sinh rất
đông, các đệ tử ḍng nữ cũng không ít. Cách thức cha thực hiện rất
đơn giản: Các em giúp lễ, các con cái của các bà hội là mục tiêu cha
nhắm. Mỗi lần tựu trường đi tu, cha đưa xe “Land Rover” chở đi. Rồi
mỗi lần về quê, về Tết, nghỉ hè cha đưa xe rước về.
*
Mừng Đức Giám Mục Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm:
Ngày 06/01/1966, Cha bề trên Giáo phận Sài G̣n, P.X
Trần Thanh Khâm được phong Giám Mục Phụ Tá. Là một người con của Họ
Đạo Búng, Đức Cha đă về quê hương “Vinh qui bái tổ”. Thánh lễ long
trong và sốt sắng. Sau đó, cả họ đạo mừng Đức Cha bằng bữa tiệc rất
đông, phía sau nhà thờ có mảnh đất làm sân đá banh (nay trồng cây
Huỳnh đường) được thu dụng để chiêu đăi. Toàn họ đạo được dịp họp
mặt và chúc mừng Đức Cha Phanxicô Xaviê.
K.
CHA SỞ THỨ MƯỜI: GIACÔBÊ HUỲNH VĂN CỦA (06/1966 –
06/1967)
1.
TIỂU SỬ
Ø
Sinh ngày:01/11/1915
Ø
Linh mục: 20/09/1941
Ø
Giám mục:22/02/1976
Khẩu hiệu Giám Mục:
“Vua trên các vua, Chúa trên các Chúa”
Ø
Qua đời:09/01/1995, tại Pháp. Hưởng thọ 80 tuổi.
·
Sổ Rửa Tội Họ Đạo Búng được cha Giacôbê , Cha Bề Trên,
kư từ 24/06/1966 đến 15/05/1967.
·
Sổ Hôn Phối họ Búng được cha kư từ 28/06/1966 đến
17/06/1967.
·
Thời cha Bề Trên, có cha Tôma Phan Minh Chánh phụ
giúp trong vài tháng.
·
Sổ rửa tội được cha Tôma kư từ 27/05/1967 đến
07/07/1967
·
Sổ Hôn phối được Cha kư từ 05/1967 đến 19/07/1967
Như vậy cha Tôma giúp được khoảng 2 tháng.
2.
CÔNG VIỆC MỤC VỤ
Thánh lễ mỗi ngày được cha cất giọng hát kinh “Kyrie
eleison (tiếng La tinh). Ngày thứ bảy mỗi tuần, cha tổ chức kiệu
ṿng quanh nhà thờ, nhưng giáo dân th́ đi trên hành lang thay v́ đi
đường đất ṿng quanh nhà thờ.
Trang trí nhà thờ:
Đặc biệt cha bề trên cho quấn cờ vải xung quanh 16 cột ở trong nhà
thờ khi có dịp lễ lớn.
Xây đài Đức Mẹ ở các khu xóm.
v
Đài Đức Mẹ Sầu Bi (Khu 1)
v
Đài Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời (Khu 1)
v
Đài Đức Mẹ Mân Côi (sau nhà thờ, khu 2)
v
Đài Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Khu 3)
Ngoài công việc ở Búng, Cha Bề Trên c̣n lo xây cất và
quản nhiệm trung tâm Bác Ái (Foyer de Charité ) ở Lái Thiêu. Thường
sau lễ sang, Ngài được chở đi Lái Thiêu trên chiếc xe Lambretta ba
bánh.
Lễ Noel 1966, Ngài don máng cỏ và bàn thờ ngay đường
giữa nhà thờ (giữa hai hàng ghế thiếu nhi).
Cha Bề Trên rất vui tánh, tếu lâm, và rộng răi. Sau
một năm th́ cha được chuyển về Lái Thiêu.
L.
CHA SỞ THỨ 11: GIUSE TRẦN QUANG TIÊN (1967 – 1969)
1.
TIỂU SỬ
Ø
Sổ rửa tội được Cha Giuse kư từ ngày 10/07/1967 đến
08/03/1969
Ø
Sổ Hôn phối được Cha kư từ ngày 27/07/1967 đến
19/03/1969
2.
CÔNG TÁC MỤC VỤ
*
Cửa ngơ nhà thờ
Trước kia, không có cửa ngơ, Cha Giuse đă xây trụ làm
cửa ngơ nhà thờ cho có ngăn nắp.
*
Khuôn viên trước nhà thờ khuôn viên Thánh Tâm:
Sân trước nhà thờ trước kia là một dăi đất rộng lớn,
thường làm nơi tổ chức mừng lễ, hoặc kiệu trọng thể. Cha Giuse cho
xây đế cao và đem tượng Thánh Tâm ở cung thánh trong nhà thờ đem đặt
ra ở đó. Tuy nhiên, đến thời cha Tôma Chánh th́ đem tượng trở vào
nhà thờ. V́ nếu để ở ngoài trời, mưa sa nắng rọi, nhiều ngày, nhiều
tháng, nhiều năm, sẽ làm tượng hư đi.
3.
GHI NHẬN
Có một kỷ vật dễ nhớ là chiếc xe con cóc”Peugeot,
deux chevaux’ Cha đi xa là nhờ xe con cóc đó. Những tháng nghỉ hè,
Cha Giáo Tiểu Chủng Viện Giuse ở Sài G̣n là Alexis Lai Chư Khanh hay
về ở Búng chơi. Ban đêm, các huynh trưởng thiếu nhi, các chủng sinh
thường chơi “domino” với các cha. Cha Alexis thường có món ăn dặm
như một rổ hột vịt lộn.
M.
CHA SỞ THỨ 12: PHÊRÔ LÊ VĂN PHÁT (1969 – 1971)
Ø
Sinh năm: 1927
Ø
Linh mục: 1955
Ø
hiện nay (2007)
đang hưu.
Ø
Sổ rửa tội họ Búng được cha kư từ 31/03/1969 đến
18/11/1971
Ø
Sổ hôn phối được cha kư từ 26/04/1969 đến 23/10/1971
Ø
Trong hai năm rưỡi ở Búng, Cha Phêrô phục vụ việc đạo
đức giáo dân là chính yếu.
N.
CHA SỞ THỨ 13: TÔMA PHAN MINH CHÁNH (1972 – 1980)
1.
TIỂU SỬ
Ø
Sinh năm 1937, gốc Chánh Thiện, Thủ Dầu Một, B́nh
Dương
Ø
Linh mục: 1967
Ø
Sổ rửa tội được cha kư từ 30/01/1972 đến 1980
Ø
Sổ hôn phối được cha kư từ 07/03/1972 đến 12/05/1980
Ø
Ngày 25/05/1980, Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống, Cha Tôma từ giă họ Búng để chuyển về họ Lái Thiêu
2.
CÔNG TÁC MỤC VỤ
*
Phục vụ việc đạo đức cho giáo dân
Thời của cha có cho trồng một số cây cao su ở đất của
nhà thờ gần đất Thánh. Đặc biệt, từ 30/04/1975, khi đất nước ḥa
b́nh, việc đạo đức là chính yếu. Ngoài ra, làm việc canh tác, trồng
lúa, trồng khoai để lo bữa ăn.
Trường nhà thờ, trước do các d́ Mến Thánh Giá Thủ
Thiêm quản lư, th́ sau 30/04/1975, được chuyển cho nhà nước quản lư
và dạy.
O.
CHA SỞ THỨ 14: CHA MICAE NGUYỄN VĂN MINH (25/05/1980
– NAY)
1.
TIỂU SỬ
Ø
Sinh năm: 1938
Ø
Linh mục:21/12/1969
Ø
1970 – 1980: Cha giáo, quản lư Chủng Viện Thánh Giuse
Phú Cường
Ø
25/05/1980 - đến nay (2010) phcụ vụ tại họ Búng.
2.
CÔNG TÁC MỤC VỤ NỔI BẬT.
*
Việc đạo đức
Với sự cộng tác của Thầy Phaolô Lê Vinh Đởm(1981 –
1989) ngoài việc ruộng rẫy với mảnh đất sau nhà thờ, cha c̣n đào ao
nuôi cá để sinh sống. Số giáo dân vào năm 1980 khoảng 3000. Việc mục
vụ rất nặng nề. Ngoài Thánh Lễ, đem Ḿnh Thánh Chúa đầu tháng, đi
xức dầu kẻ liệt, c̣n một công tác mệt mỏi liên lỉ là giải tội. Họ
Búng với gốc đạo đức từ xưa, với ḍng máu Thánh Quí tử đạo, vẫn c̣n
nét đạo đức phong phú. Vào các ngày chủ nhật, các ngày thứ Sáu, thứ
Bảy đầu tháng, giáo dân lănh nhận phép giải tội rất đông. Theo niên
giám GHCG 2004 Họ Búng có 4242 giáo dân.
Họ Búng có 6 khu xóm đạo và có 6 đài Đức Mẹ
v
Khu xóm 1 “Đức Mẹ Sầu Bi” và “Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời”
v
Khu xóm 2 “Đức Mẹ Mân Côi” (sau nhà thờ)
v
Khu xóm 3 “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”(sân Ông Hai
Giỏi)
v
Khu xóm 4 “Đức Mẹ Lộ Đức”(Núi Đức Mẹ trước nhà thờ)
v
Khu xóm 5 “Đức Mẹ Là Mẹ Thiên Chúa”(sân nhà ông 5
Hoàn, ba của Cha Nhường)
v
Khu xóm 6 “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” (sân nhà ông 9 Hoài,
Cầu Ngang)
Mỗi khu xóm có khu xóm trưởng và phó hợp thành Hội
Đồng Giáo Xứ.
Mỗi tối ở các đài có giáo dân đến đọc kinh lần hạt.
Cho đến nay(2010) họ Búng có thêm các tu sĩ được cha
sở cho đi tu:
v
2 linh mục: Maccô Thượng Nguyên Khôi và Titô Trần
Nguyên Lăm
v
1 Thầy đang tu học
v
Và khoảng 7 nữ tu, 3 đệ tử.
Họ Búng hiện nay có các hội đoàn:
v
Hội Camêlô (Ḍng ba nhà Kín)
v
Hội Mến Thánh Giá Tại Thế
v
Thiếu Nhi Thánh Thể
Ngoài ra c̣n có các đoàn thể:
Năm ca đoàn
v
Ca đoàn Thánh Quí (ca đoàn chính (Lễ sáng mỗi ngày và
lễ nhất Chúa Nhật)
v
Ca đoàn thiếu nhi (Lễ chiều mỗi ngày thường, lễ 2
Chúa Nhật)
v
Ca đoàn Nam (hát lễ chiều thứ bảy và thứ Năm Tuần
Thánh)
v
Ca đoàn Thánh Gia (lễ chiều Chúa Nhật)
v
Ca đoàn giáo lư (tối thứ bảy đầu tháng)
Các lớp giáo lư:
Từ năm 1999, thầy G.B Nguyễn Minh Hùng về giúp xứ th́
có thêm các lớp giáo lư vào đời.
Ngoài các lớp giáo lư thiếu nhi để Rước lễ lần đầu,
Thêm Sức và Bao Đồng, do các d́ Mến Thánh giá Thủ Thiêm phụ trách,
c̣n có các lớp giáo lư vào đời.
Lớp giáo lư vào đời dành cho các em từ sau Bao Đồng
gồm các lớp:
v
Lịch sử cứu độ
v
Kinh Thánh Cựu Ước
v
Kinh Thánh Tân Ước
v
Thánh lễ và Ư nghĩa
v
Sống đạo: Hai năm
§
Năm 1: Sống đạo trong hôn nhân
§
Năm 2: Sống đạo trong gia đ́nh
Sau mỗi năm học sẽ cấp giấy chứng nhận môn đă học.
cuối năm hai sống đạo, sẽ cấp chứng chỉ giáo lư. Sau khi học xong,
các em sẽ gia nhập nhóm cựu học viên giáo lư, và thực hành việc phục
vụ họ đạo (học nhạc lư, chia sẽ Lời Chúa, Tập hát, thảo luận sống
đạo. Hiện nay, có 10 giáo lư viên, dưới sự hướng dẫn của cha phó,
đang trực tiếp là giảng viên giáo lư các lớp này.
Để giúp công tác mục vụ nặng nề
Ø
Thầy Phaolô Lê Vinh Đởm (sinh năm 1955) về giúp xứ từ
năm 1981 – 1989.
Ø
Năm 1990, chịu chức Linh Mục, hiện là Cha sở họ Lộc
Ninh, B́nh Phước.
Ø
Năm 1999, thầy G.B Nguyễn Minh Hùng về giúp.
Ø
Ngày 22/12/2000, Thầy chịu chức Linh Mục và phục vụ ở
Búng.
Ø
29/08/2006, Cha G.B Nguyễn Minh Hùng chuyển về làm
cha sở Phú Long (Lái Thiêu)
Ø
1508/2006, ĐGM Phêrô Trần Đ́nh Tứ đă đưa bài sai cho
cha Phêrô Trần Huy Vũ (vừa chịu chức Linh Mục 25/07/2006 ) và cha
Phêrô về phục vụ họ đạo Búng, để chia sẽ gánh nặng của cha sở Micae
ngày 29/08/2006.
3.
VIỆC XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN
Nhân dịp mừng 100 năm ngôi thánh đường thứ 6 của họ
Búng, cổng nhà thờ và bảng hiệu
“HỌ ĐẠO BÚNG”
được thiết kế để đánh dấu một mốc quan trọng của họ
đạo
Sau năm 1988, các công tŕnh xây dựng khác ra đời
v
Khuôn viên Thánh Tâm trước nhà cha sở

v
Nền nhà thờ, hành lang, tiền đường nhà thờ được lót
gạch mới
v
Bàn thờ mới bằng đá trắng, 1 tấm duy nhất, được một
ân nhân dâng tặng năm 2005. Bàn thờ này được Đức TGM Phêrô Nguyễn
Văn Tốt, Sứ thần ṭa thánh tại Cộng ḥa Trung Phi & Tchad, Thánh
hiến ngày 04/09/2005, đồng thời ngài cũng cung hiến nhà thờ giáo xứ,
dâng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
v
Ngày 02/11/1996, Cha sở Micae khánh thành nhà nguyện
Các Đẳng tại Nghĩa Trang Họ Đạo, và có rất nhiều hài cốt được cất
giữ trong đó.

v
Năm 2006, ngôi trường gần nhà các d́ được nhà nước
trả lại quyền quản lư. Các học sinh dời về học ở một trường khác,
xây cất khang trang ở gần trụ sở xă Hưng Định, gần cầu Bà Hai. Sau
khi có được ngôi trường cho họ đạo, cha sở cho sửa sang bên trong,
và biến nó thành hội trường rộng răi, để dành cho các tổ chức sinh
hoạt trong họ đạo.
v
Mảnh đất sau nhà thờ, trước là ruộng, sau trồng cây
huỳnh đường.
*
NHÀ MỒ CÔI HỌ BÚNG
v
Khoảng vài năm trước khánh thành, được cha sở Micae
đồng ư, Thầy Giuse Lê Thanh Quang bắt đầu việc xây dựng một dăy nhà
để có thể nuôi các em mồ côi.
v
Dần dần được sự giúp đỡ của nhiều ân nhân, 1 ngôi nhà
với 1 trệt, 2 lầu được cất khang trang sau 6 tháng thi công.
v
Thứ Hai ngày 24/11/2003, Lănh đạo cấp tỉnh, huyện, và
xă đến dự lễ cắt băng khánh thành, cùng một số khách quư khác. Nhà
này được gọi là “Nhà t́nh thương của Ủy Ban Đoàn Kết Thuận An, B́nh
Dương”
v
Ngày thứ Sáu 12/12/2003, Thánh lễ tạ ơn và khánh
thành nhà Mồ Côi Búng được tổ chức long trọng. Nhân dịp này Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II Cũng ban phép lành Ṭa Thánh cho quư ân
nhân đă góp công góp của xây dựng “ Nhà Mồ Côi Thánh Giuse Búng”.
Chứng chỉ phép lành của Ṭa Thánh do Tổng Giám Mục Oscar Rizzato kư
ngày 09/12/2003.
v
Sau đó nhà mồ côi c̣n xây them một số công tŕnh phụ:
Nhà sinh hoạt, pḥng y tế, pḥng học, và cũng được khánh thành ngày
thứ năm 19/08/2004. Ngày lễ Thánh Giuse Thợ (01/05/2006), các ân
nhân cũng được mời về để dự nghi lễ làm phép tượng Thánh Giuse ở
công viên nhà Mồ Côi. Sau Thánh Lễ, khách mời chia sẽ cơm hộp mừng
cho các em.
v
Hằng năm các phái đoàn đến thăm và ủy lạo các em.
Phái đoàn bác sĩ Mỹ đến khám bệnh và chữa trị cho các em, dưới tên
The Children of Peace (Trẻ em ḥa b́nh) mỗi năm 1 hoặc 2 lần. Đến
nay (2010) nhà Mồ Côi Họ Đạo Búng vẫn phát triển và sinh hoạt tốt
đẹp.
4.
CÁC LỄ KỶ NIỆM TRONG HỌ ĐẠO THỜI CHA MICAE ĐẾN NAY
Năm 1982, lễ
NGÂN
KHÁNH LINH MỤC LONGINÔ NGUYỄN THỚI MẬU,
Linh mục Longinô là người con thuộc Họ Đạo Búng, sinh ra lớn lên đi
tu từ họ Búng, chịu chức linh mục ngày 21/08/1957. Năm 1982 đang là
cha sở họ Phước Lư, Giáo phận Xuân Lộc, để ghi nhớ hồng ân bao la
của Thiên Chúa, Cha về Họ Búng để dâng lễ tạ ơn và gặp gỡ bà con
trong bàn tiệc tại gia ngày 23/08/1982.
*
Ngày 24/11/1988, lễ ĐỆ NHẤT BÁCH CHU NIÊN NHÀ THỜ HỌ
ĐẠO BÚNG
Ngày này là ngày kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam . Nên
nhớ rằng ngày 19/06/1988, vừa qua (cách 5 tháng trước), ĐGH Gioan
Phaolô II đă tôn 117 vị Á Thánh (Chân Phước) tử đạo Việt Nam lên bậc
Hiển Thánh, trong đó có Thánh Phêrô Đoàn Công Quí của họ đạo Búng.
Với sự cộng tác đắc lực của mọi người trong họ đạo,
Cha sở đă tổ chức một lễ bách chu niên thật long trọng. Với sự hiện
diện của giới chính quyền, cùng sự hiện diện của 3 ĐGM: TGM Phaolô
Nguyễn Văn B́nh (Sài G̣n), Anrê Nguyễn Văn Nam (Mỹ Tho), và Giuse
Phạm Văn Thiên (Phú Cường), quí Linh mục gốc họ Búng, quí linh mục
khách mời như LM Vơ Thành Trinh ….quí nữ tu gốc Búng và nhiều giáo
dân khác, cờ xí đủ màu trong nhà thờ đến bên ngoài, bong hoa ngợp
trời, tiếng nhạc trầm bổng dâng lên Đấng Tối Cao – không thể tả xiết.
Sau thánh lễ, quí khách và giáo dân (mỗi gia đ́nh đại
diện một người) cùng chung vui trong buổi đại tiệc mừng
BÁCH CHU NIÊN.
Các thực khách c̣n được thưởng thức các món văn nghệ của các diễn
viên “Cây nhà lá vườn” họ đạo khi đang ăn. Thật là mừng và tạ ơn
khôn xiết.
*
Các lễ mở tay của các Tân Linh Mục Gốc Họ Búng
v
LM Gioan Thiên Chúa Nguyễn Thới Minh (cháu cha
Longinô Nguyễn Thới Mậu) chịu chức ngày 19/09/1987 (Giáo phận Xuân
Lộc)
v
LM Titô Nguyễn Minh Nhường chịu chức ngày 25/01/1989
(Giáo phận Phú Cường)
v
LM Phêrô Trần Minh Bạch (Ḍng Chúa Cứu Thế Canada )
chịu chức14/05/1995
v
LM Giuse Nguyễn Công Danh chịu chức ngày 31/12/1995 (Giáo
phận Đà Lạt)
v
LM Micae Nguyễn Linh Ghi (Đài Loan) chịu chức ngày
28/04/1996
v
LM Maccô Thượng Nguyên Khôi chịu chức ngày 18/10/2001
(Giáo phận Phú Cường)
v
LM Titô Trần nguyên Lăm chịu chức tháng 07/2008
v
Ngày thứ năm 28/07/1994 NGÂN KHÁNH LINH MỤC, Cha sở
họ Búng. Mặc dù chịu chức ngày 21/12/1969, nhưng nhân dịp Đức Ông
Phêrô Nguyễn Văn Tốt (em cha sở) và cô em út ở ngoại quốc về thăm,
cha đă tổ chức mừng lễ Bạc (25 năm) Linh Mục. Thánh lễ tạ ơn được cử
hành long trọng, đông linh mục, tu sĩ, cùng giáo dân cả họ hang tham
dự. Bữa tiệc mừng 25 năm gồm tiệc ngọt (dành cho mỗi gia đ́nh trong
họ đạo) và tiệc mặn (dành cho khách bên ngoài). Trước đó, tối chủ
nhật 24/07/1994, các ca đoàn và hội đoàn đă tổ chức văn nghệ với dàn
diễn viên “cây nhà lá vườn” tại sân trước nhà các d́, tiếp thêm niềm
vui và hạnh phúc cho cha sở, Đức ông và gia đ́nh cũng như cả họ đạo.
*
NĂM THÁNH 2000
Họ Búng khai mạc năm Thánh 2000 vào lễ Chúa Giáng
Sinh. Trước lễ có văn nghệ mừng Chúa Giáng Sinh trước tiền đường nhà
thờ. Sau đó, giáo dân dự Thánh lễ trong nhà thờ.
Ngày 31/07/2000, toàn thể giáo dân tựu về Búng dâng
lễ mừng Thánh Phêrô Đoàn Công Quí tử đạo. Hài cốt Thánh Phêrô Quí
được cung nghinh ṿng quanh nhà thờ. Trước hài cốt có đoàn các em
rải hoa, sau hài cốt có các linh mục đồng tế và ĐGM Phêrô Trần Đ́nh
Tứ, Giám Mục Giáo Phận Phú Cường. Thánh lễ trong nhà thờ đầy trang
nghiêm và cảm kích. Phép lành toàn xá được ban cho người tham dự lễ
này.
Ngày 22/12/2000, Thầy G.B Nguyễn Minh Hùng, đang giúp
tại họ Búng. Lănh nhận chức Linh mục tại nhà thờ Lái Thiêu, do ĐGM
Giáo Phận Phú Cường chủ phong. Sau đó, ngày 25/12/2000, Tân Linh Mục
G.B đă về dâng thánh lễ mở tay và ban phép lành Ṭa Thánh cho họ đạo.
*
NĂM 2005 – NĂM THÁNH THỂ CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM
Theo ư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam , Lễ Ḿnh Máu
Chúa Kitô phải được cử hành trọng thể. Hôm đó là ngày chủ nhật
29/05/2005, họ Búng tổ chức thật long trọng. Trên tháp cao là khung
h́nh 2 tay nâng chén rượu Bánh Thánh do ban giáo lư thực hiện.
Thông thường có 2 lễ sáng chủ nhật cử hành trong nhà
thờ, nhưng hôm đó, chỉ có 1 Thánh Lễ. Trước Thánh Lễ là kiệu Ḿnh
Thánh Chúa thật trang nghiêm, cung kính. Trước kiệu là ban rải hoa,
cha sở cầm Mặt Nhật đi giữa lộng vàng do 4 ông Hội Đồng Giáo Xứ cầm.
Ca đoàn đă dọn lễ đài trước tháp chuông, và thánh lễ đă cử hành long
trọng tại đó. Sự thay đổi này đă làm cho tinh thần tín hữu thêm an
ủi và yêu Chúa Thánh Thể hơn.
Tháng 08/2005,
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN TỐT,
Sứ Thần Toà Thánh ở Togo và Bénin (Châu phi) về thăm quê hương -
MỪNG CHA SỞ MICAE 25 NĂM Ở BÚNG - MỪNG CHA PHÓ 5 NĂM LINH MỤC.

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN TỐT
Ø
Sinh ngày: 15/04/1949 tại Lái Thiêu, trong một gia
đ́nh có 12 anh chị em, là cháu của Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm.
Ø
Ngày 17/08/1959 vào Tiểu Chủng Viện Thánh Giuse Sài
G̣n
Ø
Năm 1967: Du học tại Rôma
Ø
Năm 1974 : Lúc 25 tuổi được thụ phong Linh mục.
Ø
Năm 1977: Tốt nghiệp cử nhân Kinh Thánh, Phó Giám Đốc
Trường Truyền Giáo Rôma.
Ø
Cuối năm 1980: ở tại Zaire , Châu Phi.
Ø
Năm 1982:Học Đại Học Urbaniana ở Rôma.
Ø
Năm 1985” Tiến sĩ Thần Học, tiến sĩ Kinh Thánh và cử
nhân Giáo Luật.
Ø
Từ 1985 – 1988: Thư kư Sứ Thần Ṭa Thánh tại Panama (Trung
Mỹ)
Ø
Từ 1988 – 1993:Thư kư Sứ Thần Ṭa Thánh tại Braxin
Ø
Từ 1994 – 1997:Thư kư Sứ Thần Ṭa Thánh tại Rwanda
Ø
Từ 1997 – 2000: Cố vấn Sứ Thần Ṭa Thánh tại Pháp.
Trong thời gian này tốt nghiệp tiến sĩ Giáo Luật.
Ø
tỪ 2000 – 2003: Xử lư thường vụ Sứ Thần Ṭa Thánh ở
Bénin & Togo
Ø
Ngày 06/01/2003: Lúc 54 tuổi, thụ phong Giám Mục và
nhận dây Pallium trở thành Tổng Giám Mục, chính thúc là Sứ Thần Ṭa
Thánh tại Bénin & Togo
Ø
Từ 18/08/2005 – 13/05/2008: Là Sứ Thần Ṭa Thánh tại
2 nước Cộngn Ḥa Tchad và Trung Phi
Ø
Từ 13/05/2008: Là Sứ Thần Ṭa Thánh tại Costa Rica (Trung
Mỹ)
Ø
Đức Tổng Giám Mục về thăm quê hương 3 lần:
Ø
Tháng 07/1994 khi c̣n là Đức Ông
Ø
Tháng 08/2005 khi là Tổng Giám Mục
Ø
Và tháng 07/2007
CÁC THÁNH LỄ TRONG THỂ CỦA ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHÊRÔ
NGUYỄN VĂN TỐT
·
Chúa Nhật 14/08/2005: Các em Rước Lễ Lần Đầu
·
Chúa Nhật 21/08/2005: Các em được ban Bí Tích Thêm
Sức đặc biệt có 2 Giám Mục cùng trao: ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt và
ĐGM Phêrô Trần Đ́nh Tứ
Lạ lùng là cả 2 GM có điểm chung:
·
Được tấn phong GM cùng ngày 06/01, nhưng ĐGM Phêrô Tứ
th́ năm 1999, c̣n ĐTGM Tốt th́ vào năm 2003.
·
Cả 2 GM cùng được ĐGH Gioan Phaolô II Tấn phong.
·
Chúa Nhật 04/09/2005: Cung hiến nhà thờ và bàn thờ họ
đạo Búng. Bàn thờ mới là một phiến đá dài, rộng được một ân nhân quí
tặng.
·
Sáng thứ năm 01/09/2005, toàn thể Ḍng Ba Camêlô Sài
G̣n về họ đạo tĩnh tâm và dự thánh lễ do ĐTGM Phêrô chủ sự. Sau đó,
họ dung bữa ăn trưa nhẹ tại nhà xứ
·
Ngày thứ ba 06/09/2005, ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt lên
đường về nhận nhiệm sở mới, cũng ở Châu Phi là: Cộng Ḥa Trung Phi
và Tchad.
Nhân dịp này, tối chúa nhật 21/08/2005, họ Búng có tổ
chức buổi văn nghệ mừng Đức Tổng Giám Mục, mừng cha sở 25 năm ở Búng
và mừng cha phó 5 năm linh mục.
Đức Tổng rất quan tâm đến các diễn viên là công nhân
ở nhà trọ, từ các tỉnh phía Bắc vào đây làm ăn. Ngài xin chụp nhiều
h́nh lưu niệm. Tiết mục “chim bồ câu” của các công nhân rất hay,
nhưng giữa chừng,lúc đứng lên vai nhau có 1 chim bồ câu bị xệ cánh,
rớt xuống. Ngài hỏi thăm em đó có sao không.
Trong Thánh Lễ từ biệt ngày thứ ba 06/09/2005. Ngài
có nhắc đến tiết mục hát mừng Ngài về quê hương, tựa là “Về Bến Xưa”
và trong Thánh Lễ từ biệt, ca đoàn hát bài “Ra Khơi” để tiễn Ngài.
Thật là nhớ dai!
Có người nói chơi trước khi Ngài lên xe đi đến phi
trường: “Lần này, lên chức Giám mục về thăm nhà, lần tới, lên Hồng
Y, xin về nữa”. Ngài đáp ngay: “Không lên Hồng Y cũng về nữa”
ĐTGM Phêrô Tốt về thăm quê hương vào ngày 01/07/2007
và ở họ Búng trọn một tháng, với cha sở Micae, anh ruột của Ngài.
Quả thật là vui mừng không kể siết.
Thánh Lễ “Tiễn Cựu Nghinh Tân”Tiễn cha phó Gioan
Baotixita Hùng, và rước cha phó Phêrô Trần Huy Vũ
Sáng thứ ba ngày 29/08/2006, Lễ G.B bị trảm quyết.
Các cha đồng tế gồm có G.B Hùng, Cha Phêrô Vũ, và cha nghĩa phụ
Giuse Tước, đă cùng dâng thánh lễ với ư nghĩa nêu trên.
Dù ở tại Búng 7 năm, nhưng cha phó G.B Hùng, nay là
cha sở họ Phú Long, đă để lại nhiều dấu ấn.
v
Các lớp giáo lư vào đời
v
Chầu Ḿnh Thánh Chúa tối thứ bảy cuối tháng
v
Lễ tối thứ bảy đầu tháng cho công nhân, giới trẻ.
v
Các nhóm cầu nguyện chia sẽ Lời Chúa
Sau Thánh Lễ là bữa điểm tâm chia tay cha phó cựu
cũng như đón rước cha phó mới.
Lúc 9 giờ tại Phú Long, Thánh Lễ nhậm chức của cha
G.B Hùng, nhiều giáo dân Búng tham dự và cầu chúc cha an lành trong
nhiệm vụ mới.
Cha phó Phêrô Trần Huy Vũ nhận nhiệm sở ở Búng với
nhiệm vụ nặng nề của một họ đạo cổ xưa, đông tín hữu.
SỐ TÍN HỮU HỌ BÚNG
Ø
Năm 1875: Khoảng 1000 giáo dân (suy đoán)
Ø
Năm 1893: 1500 giáo dân (theo tài liệu MEP)
Ø
Năm 1925: 2000 giáo dân (theo tài liệu MEP)
Ø
Năm 1964: 1540 giáo dân (theo Niên Giám 1964)
Ø
Năm 2004: 4242 giáo dân (theo niên giám 2004)
Ø
Năm 2005 : 4621 giáo dân (theo Kỷ yếu giáo phận Phú
Cường)
HÀNG NĂM, HỌ BÚNG CÓ NHỮNG LỄ KỶ NIỆM ĐÁNG GHI NHỚ
v
Lễ bổn mạng họ đạo: Lễ Thánh Tâm (Thứ Sáu sau Lễ Ḿnh
Máu Chúa Kitô)
v
Lễ Bổn Mạng các khu xóm:
Ø
Khu xóm 1: Đức Mẹ Sầu Bi (15/09) (đài chính);
Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15/08) (đài phụ)
Ø
Khu xóm 2:
Đức Mẹ Mân Côi (đầu tháng 10)
Ø
Khu xóm 3:
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (08/12)
Ø
Khu xóm 4:
Đức Mẹ Lộ Đức (11/02) (Núi Đức Mẹ)
Ø
Khu xóm 5: Đức Mẹ Là Mẹ Thiên Chúa (01/01)
Ø
Khu xóm 6: Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (27/05)
v
Lễ Thánh Phêrô Đoàn Công Quí (31/07)
v
Lễ Bổn mạng cha sở, cha phó.
v
Lễ Giỗ Cha Robert Keller(17/06), cha sở đầu tiên
Antôn Vơ, chết 06/10/1886, và các cha phục vụ ở Búng.
v
Ngoài ra c̣n có 3 lễ lớn họ Búng hằng năm tổ chức:
·
Lễ Giáng Sinh
·
Lễ Phục Sinh
·
Lễ Các Đẳng (tại Nghĩa Trang)
Thứ hai 29/04/2007, Cha sở, HĐGX, GIÁO DÂN Búng làm
nghi thức “động thổ” xây nhà sinh hoạt họ đạo.
MỘT SỐ SỰ KIỆN GHI NHANH TRONG THÁNG 6 VÀ 7/2007
1.
Chủ nhật 01/07/2007 : Đức Tổng Giám Mục
Phêrô Nguyễn Văn Tốt về Họ Đạo Búng lần thứ ba.
2.
Chủ nhật 08/07/2007: Đức Tổng Giám Mục
Phêrô chủ sự Thánh Lễ cho các em Rước Lễ Lần Đầu và Rước Lễ Trọng
Thể (bao đồng)
3.
thú hai 16/07/2007: Đức Tổng Giám Mục
Phêrô chủ sự Thánh Lễ mừng Đức Mẹ núi Cát Minh tại ḍng kín Sài G̣n,
và chứng kiến lễ khấn vĩnh viễn của một người con gốc Búng, nữ tu
Maria Carmêla Hài Đồng Giêsu Nguyễn Thị Minh sa.
4.
Chủ nhật 22/07/2007: Đức Tổng Giám Mục
Phêrô ban Bí Tích Thêm Sức cho 114 em của họ đạo. Ban tối lúc 07 giờ
15, Đức Tổng dự văn nghệ với chủ đề “Quê Búng xưa và nay” tại hộ
trường, do một số con em trong họ đạo tŕnh diễn.
5.
Thứ bảy 28/072007: Đức Tổng Phêrô chủ
sự Thánh lễ mừng “Kim Khánh Linh Mục và Thượng Thọ Bát Tuần” cha
Longinô Nguyễn Thới Mậu, cháu 7 đời của ông Nguyễn Thới B́nh, người
sáng lập làng Hưng Định, và là một trong những người đầu tiên thành
lập nhà thờ đầu tiên của Họ Búng.
6.
Thứ ba 31/07/2007: Đức Tổng Phêrô chủ
sự Thánh Lễ mừng 148 năm tử đạo của Thánh Phêrô Đoàn Công Quí, Đồng
thời chúc mừng bổn mạng ca đoàn mang tên Thánh Quí.
7.
Thứ sáu đầu tháng 03/08/2007: Thánh lễ
tiễn đưa Đức Tổng Phêrô lên đường, trở lại Phi Châu để tiếp tục công
việc ở đó.
8.
Mừng Lễ Kim Cương Khấn Ḍng của nữ tu
Anna Lê Thị Chính ngày thứ bảy 30/06/2007, 70 năm khấn ḍng tại Mến
Thánh Giá Thủ Thiêm là cô út của 2 linh mục: Micae Lê Văn Khâm và
Linh mục nhạc sỹ Thiên ư Gioan Baotixita Lê Quang Đức, nữ tu nay đă
được 93 tuổi.
9.
Nữ tu Maria Trần Thị Thảo Nguyên, D̉NG
Thánh Phaolô, đă khấn trọn đời ngày 23/07/2007.
Tổng Cộng:
·
14 Cha sở 4 Cha sở tạm thời (4 tháng)
·
14 Cha phó
·
31 Cha ( Cha Tôma Chánh làm phó, rồi trở về làm Cha
sở ).Nếu tính 02 cha thời kỳ trước 1875 th́ tổng cộng có 33 Cha giúp
họ Búng.
P.
PHỤ LỤC
1.
TIỂU SỬ THÁNH QUÍ
Nếu “Máu
các Thánh tử đạo là hạt giống sinh người Kitô Hữu”,
th́ họ Búng được kể là hạnh phúc và vinh dự v́ được xây đắp bằng
xương máu của bậc tiền nhân anh dũng trong đức tin, vị linh mục đầu
đàn, người con cả yêu quí của họ đạo..
Thánh Linh Mục Phêrô Đoàn Công Quí, người đă đổ máu
ra v́ đức tin tại Châu Đốc năm 1895 nhưng họ Búng chính là nơi sinh
trưởng, chi
nôi của Người.
Linh mục Phêrô Đoàn Công Quí là con ông Antôn Đoàn
Công Miêng, và bà Annê Nguyễn Thị Thường, cha mẹ vốn ḍng quyền quí,
nguyên quán ở Đàng Ngoài, đă từng pḥ vua giúp nước.
Không rơ v́ lư do nào (có thể v́ lư do công giáo),
vào cuối đời Gia Long (1802 – 1820), hai ông bà cùng vài người con
di cư vào Nam , ngụ tại Búng, tỉnh Thủ Dầu Một , nay là tỉnh B́nh
Dương. Tên của các anh chị của Phêrô Quí là: Thới, Bường (gái)
Đă, Rạng, Báu. Và chính tại đây, Phêrô Đoàn Công Quí,
con út trong 6 người con, mở mắt chào đời vào năm 1826, dưới triều
Minh Mạng, tại họ Búng, thuộc làng Hưng Định, tổng B́nh Chánh, tỉnh
Thủ Dầu Một.
Cậu Quí bản chất thông minh, được cha mẹ cho học chữ
nghĩa, hấp thụ nền Nho học và sống trong một gia đ́nh lễ giáo. Từ
lâu cậu Quí muốn hiến thân cho Chúa để làm linh mục, giúp việc tông
đồ. Nhưng cha mẹ thấy cậu út thông minh, có bề thế sau này, nên để
cậu ở lại giữ nghiệp tông đường, và để cho anh của cậu đi tu. Tuy
nhiên, “Nhân nguyện như thử như thử, thiên lư vị nhiên vị
nhiên”nghĩa là người ta muốn thế này mà ư trời lại định ư khác. V́
vậy,sau khi anh của cậu xin rút lui hoàn tục, th́ cha mẹ lại cho cậu
đi tu như ư định ban đầu. Cậu bỏ hết để đến ở với Cha Tám, bổn sở họ
Búng, để tập đời sống tu tŕ. Năm 1847, cậu được cha Tám giới thiệu
với với cha bề trên Gioan Mịche, sau này là Giám Mục. Năm đầu học La
Tinh tại nhà bề trên, năm sau cậu được gửi vào học chủng viện Thánh
Giuse, lúc ấy đặt tại Thị Nghè, do cha Borelle (Ḥa) làm bề trên,
sau đó ít lâu, vào năm 1848, Thầy Quí được gửi đi du học tại Đại
Chủng viện Pinăng (Mă Lai). Sau 7 năm học tập và tu luyện, thầy trở
về quê hương năm 1855, lúc ấy vua Tự Đức đang cấm đạo gắt gao.
Đức cha Lefèbre (Ngăi) thoạt đầu dặn thầy phải tạm ẩn
náu qua ngày, nhưng sau lại sai Thầy đi săn sóc, dạy dỗ, an ủi giáo
dân các họ. Nhận thấy thầy có đủ điều kiện về học thức, đạo đức và
tinh thần tông đồ, năm 29 tuổi, Đức cha cho Thầy chịu chức cắt tóc,
và hai năm sau chịu chức Phó tế.
Vào tháng 9/1858, Đức Cha truyền chức Linh Mục cho
Thầy tại nhà thờ Thủ Dầu Một.
Là con cái trong Họ, cha Phêrô Quí sau đó đă về Búng để “vinh qui
bái tổ”. Nói là vinh qui chứ thực ra thánh lễ
được cử hành kín đáo, đơn sơ tại G̣ Cầy (Bây giờ là
cuối đường ḷ chén Chùm Sao vô vài trăm mét). Cha Phêrô Quí c̣n nán
lại nhà ông Trùm Tín (là cháu của ông B́nh và là con của ông Định)
th́ có tin báo về Cai tổng ở Lái Thiêu là ông Tín chứa chấp cố đạo.
Ở Lái Thiêu có một viên thư kư quen than với gia đ́nh ông Tín, khi
nghe câu chuyện liền lấy ngựa chạy ngày đến nhà ông Tín, vừa hốt
thuốc cho mẹ vừa báo tin. Chiều hôm đó, một chiếc ghe xuôi đường
rạch cầu Cây Trâm, đi ra phía vàm Búng và hướng thẳng về Bà Lụa. Khi
đi dọc theo bờ rạch, có người nh́n thấy và hỏi th́ ông Chư (con cả
ông Tín) vừa chèo ghe, vừa trả lời “Anh này (chỉ cha Phêrô Quí) quen
ở Bà Lụa, rủ tôi lên đó để gát Cuốc”….Thế mới biết, bắt đầu bước lên
bàn thờ tế lễ, là bắt đầu bước chân lên đồi Cal-vê, bắt đầu cuộc tử
đạo. Sau Lái Thiêu, Gia Định, Biên Ḥa, cha Quí được cử làm phó sở
Cái Mơn. Vừa đến nhậm sở được ba tháng th́ xảy ra vụ quân linh đến
vây ḍng Mến Thánh Giá, để lùng bắt giáo sĩ, nhưng không t́m được
giáo sĩ, họ bắt mấy nữ tu.
Không sợ nguy hiểm, cha Quí định ra mặt với quan quân,
để chuộc mạng cho các nữ tu, nhưng giáo hữu không để người ra.
Sau đó Đức
cha cử người đến họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng , Tỉnh An Giang ngày
27/12/1858, th́ mười ngày sau 07/01/1859, quan Tổng đốc An Giang
được mật báo có Tây Dương đạo trưởng trú ẩn tại nhà ông Emmanuel Lê
Văn Phụng, lúc ấy là Câu phủ họ (tức Trùm họ) Đầu Nước. liền sai 100
lính đến bao vây. Được tin làng bị lính bao vây,Cố Pernot nói với
cha Quí hăy đi trốn để thoát lưới quân thù, Cha quí lại bảo Cố trốn
đi, c̣n cha nhất định không nao núng sợ hăi chi cả, Ngài cho ḿnh
không có dấu chỉ ǵ để quan biết ḿnh là linh mục.
Quan vào nhà ông Emmanuel Phụng, truyền cho ông phải
nộp Tây dương đạo trưởng. Ông Trùm Phụng trả lời ở đây không có Tây
dương đạo trưởng trú ẩn. Quan quat lớn lên:
- Đạo trưởng ở đâu?
Cha Quí đứng gần đó trả lời:
- Tôi là Đạo Trưởng
Quan hồ nghi:
- Không phải mày, mày phải t́m nộp cho chúng tao Tây
dương đạo trưởng mới được.
Cha đáp:
- Không có Tây dương đạo trưởng nào ở đây cả, Tôi
chính là Đạo Trưởng, tôi sung sướng làm việc giảng đạo , ai muốn
nghe đạo tôi sẵn sàng chỉ dạy.
Quan thấy cha Quí c̣n trẻ, không có vẽ ǵ là đạo
trưởng, không tin lời của Cha khai là thật. Quan mới quay ra hỏi đứa
nhỏ khoảng 10 tuổi, là cháu nội của ông Trùm Phụng, xem đạo trưởng
là ai
Đứa nhỏ chỉ vào cha Quí:
- Chính ông này là đạo trưởng.
Quan hết hồ nghi, liền truyền lệnh bắt trói cha Quí,
và bắt luôn ông Trùm Phụng cùng 32 bổn đạo trong làng, rồi xiềng
xích bắt về Châu Đốc. Hôm ấy là ngày mồng 07 tháng Giêng năm 1859.
Đến Châu Đốc, Ngài bị dẫn đến trước mặt quan Tổng đốc,
quan thẩm vấn cha nhiều điều và hứa sẽ tha nếu cha bỏ đạo, theo như
chiếu chỉ của nhà vua, nhưng cha Quí vẫn kiên quyết nhận ḿnh là đạo
trưởng và quyết không từ bỏ đạo.
Lần khác quan nói với cha, “Thầy là người thanh liêm,
nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo, hăy nghe ta mà bỏ đạo
đó đi”
Cha Quí trả lời:
- Dạ, thưa quan, tôi là người giảng dạy đạo này, sao
lại có thể bỏ đạo cho được? Vả nữa, đây là chính đạo, v́ chỉ dạy
điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu.
Quan liền sai giam cha vào ngục và sau đó dung nhiều
phương kế đe nạt, dụ dỗ, tra tấn ḥng làm thay đổi lập trường của
cha, nhưng cha vẫn một ḷng trung kiên với chính đạo. Sau cùng, quan
thảo bản án trảm quyết gửi về kinh đô. bảy tháng trong ngục, cha Quí
động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện ngắm và đọc kinh Mân
Côi với họ. Một giáo hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản quốc cải
trang để vào giải tội và cho cha rước Thánh Thể.
từ trong ngục thất, Ngài gửi về cho mẹ (thân phụ qua
đời) một bức thư bằng văn vận, ư từ cao sâu, lời lẽ cảm động
THƯ Ở NGỤC ĐƯỜNG
Kư vụ thân mẫu đôi chữ tường tri
Kể từ ngày con vâng lệnh ra đi
Ḷng lă chă lệ rơi luồng lụy
Ngỡ tới đây hành công biện sự
Một hai tháng về viếng từ than
Ai ngờ rầy sớm cách ĺa phân
Trời cùng nước không hề vầy hiệp
Hễ Đạo làm tôi đua giữ lời răn dạy
Cho nên con vâng lệnh chỉ sai
Đàng xa xôi cách trở chi nài
Miễn đặng tiếng vâng lời chịu lụy.
Sau khi tỏ t́nh nhớ mẹ, cha kể chuyện ḿnh:
Kính thưa má,
Khi con tới An Giang tạm nghỉ
Gặp chầu trời mở hội khoa thi
Nên con phải liều thân ứng cử
Ấy là Thiên Chúa chi sở nhiên
Nhân tất tùng chi, nhi dĩ hỉ.
Dầu trăng trói gông cùm tù rạc
Chốn ngục h́nh xiềng tỏa chi nề
Miễn vui ḷng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thành hiếu tử
Chí con dốc đền công ơn Chúa
Dạ con làm báo ngăi mẹ cha
Xin mẫu từ chớ chút phiền hà
Một vui chịu cho danh cha cả sang.
Mẹ ở lại lần hồi ngày tháng,
Việc hôm mai cần cán giữ ǵn,
Gắng công phu việc Chúa kính tin,
Hằng khắc kỷ dẹp yên ba giặc….
Nẻo tam cừu th́n ḿnh chớ mắc,
Giữ mười răn cẩn mật đừng sai,
Dẫu đời này ly biệt bao nài,
Sau ắt cùng một nhà vầy hiệp.
Nay thơ,
Thân tử Bá Đa Lộc Đoàn Công Quí
Linh mục bản quốc.
Ngày 30 tháng 07 năm 1859, án lệnh của triều đ́nh
được gửi từ kinh đô tới Châu Đốc
Sang hôm sau là ngày 31/07/1859, ngày thi hành án
lệnh, hai cha con, Phêrô Quí và ông Trùm Phụng, mặc áo tốt nhất, ung
dung và đĩnh đạc đi đến pháp trường, có quan quân đi trước, giáo hữu
đi sau. Một tên lính vác thẻ, lâu lâu lại cất tiếng rao:
“Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, Kỷ Vị niên, thất
nguyệt, sơ nhị nhật. Thẻ: Đạo trưởng Đoàn Công Quí tùng gian đạo,
đạo chủng; Đạo thư; bất khẳng quá khóa; Vi phạm quốc pháp;luật h́nh
trảm quyết. Tư thẻ”
Quả thật đây là án lệnh của vị tuẫn đạo. Khi tới xóm
Chà Và gần cầu cây Mét là chỗ pháp trường, hai cha con cùng qú
xuống cầu nguyện, cha ban phép giải tội cho con, con từ giă cha,
giáo hữu đến bái biệt hai vị bước vào cơi phước.
Bỗng ba tiếng chiêng vang lên giữa đồng vắng, một hồi
trống giục, rồi ba lát gươm trao, lát thứ nhất rồi lát thứ hai hết
nữa cổ, lát thứ ba gần đứt hết, lát thứ tư đứt hẳn, một chiếc đầu
rơi. Linh hồn cha Phêrô Quí bay về cơi cao xanh, có ông Trumg Phụng
đi liền theo sau trong giây lát. Hôm ấy là ngày 31/07/1859, cha Quí
vừa tṛn 33 tuổi.
Cha Vọng và giáo dân lănh xác cha Quí về an táng ở
nhà thờ Năng Gù, sau được cải táng đem về chủng viện Cù Lao Giêng
1959, nhân dịp Bách chu niên cuộc tử đạo của Ngài. Tên của Ngài được
đặt cho trường Trung Học Năng Gù (trước năm 1975) và Tiểu chủng việc,
rồi Đại Chủng Viện Thánh Quí ở Giáo Phận Cần Thơ. Đại Chủng Viện
Thánh Quí đào tạo linh mục cho các giáo phận: Cần Thơ, Vĩnh Long và
Long Xuyên.
Đức Thánh Cha Piô X đă phong Ngài lên bậc Á Thánh vào
ngày mùng 02 tháng 05 năm 1909. để tưởng nhớ và kỷ niệm công đức của
Ngài, một tượng đài uy nghi được xây dựng trước nhà thờ Búng, nơi
chon nhau cắt rốn của vị Thánh
Và ngày 19/06/1988 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă
nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.
Ḍng họ Thánh Quí tiếp tục dâng hiến cho Cho Giáo hội
nhiều vị linh mục: quí cha Đoàn Công Triệu (1936), Đoàn Quang Đạt
(1956), Đoàn Thanh Xuân (1954), và nhiều tông đồ giáo dân nhiệt
thành.
Theo sổ rửa tội c̣n lưu tại Búng, gia đ́nh thuộc họ
Đoàn Công được kể ra như sau:
Ông Raymond Đoàn Công Huy và bà Anê Nguyễn Thị Nhiệm
đă sinh ra:
-
Tôma
Đoàn Công Tửu, 03/05/1877, xă B́nh Sơn, Tổng B́nh Chánh, rửa tội
ngày 06/05/1877 do cha Vơ.
-
Phaolô
Đoàn Công Luông, 04/10/1878, xă B́nh Sơn, tổng B́nh Chánh, rửa tội
ngày 06/05/1878, do cha Vơ.
-
Phaolô
Đoàn Công Tần, rửa tôi ngày 17/01/1888, do cha Giuse Thơ.
-
G.B Đoàn
Công Chiêu, rửa tội ngày 12/09/1891, do cha Giuse Thơ
-
Anrê
Đoàn Văn Quan, rửa tội 02/01/1894, do cha Simon
-
Đoàn
Công Triều, rửa tội 22/09/1896
-
Phêrô
Đoàn Công Hội, sinh 13/10/1885, rửa tội 15/10/1885, do cha Antôn
Vơ.
CẦN LƯU Ư:
QUÍ HAY QUƯ ?
Ø
Tài liệu của linh mục Pernot từng sống với vị Thánh,
và sau này kể lại ở Paris , luôn ghi “le prêtre QUI” “P.QUI”
Ø
Trong tờ xin làm gia phả đầy đủ của vị Thánh, ông
Đoàn công Tần cháu đời thứ 4 của vị Thánh, ghi : Tông chi than tộc Á
Thánh Đoàn Công Quí” (31/07/1967).
Ø
Trong bản ghi nguồn gốc họ Búng, cha Martin (MEP)ngày
10/02/1911, cũng ghi “ Le Bienheureux Pierre QUÍ (trang 2 và trang
10).
Ø
Khi xây dựng tượng đài Thánh tại họ Búng, Ông Đoàn
Công Chánh, ghi tại chân đế “ Thánh Phê rô Đoàn Công Quí” và ngày
17/02/1960, Đức Cố Giám Mục Simon Ḥa Nguyễn Văn Hiền đă khánh thành
tượng đài này.
Ø
Quyển “Hạnh tích các đấng Chân Phước tử đạo” các vị
có hài cốt chôn tại bàn thờ chánh Vương Cung Thánh Đường Sài G̣n
xuất bản 1960, trang 42 viết về “ Chân Phước Phêrô Đoàn Công Quí”.
Ø
Trong sách “ Thánh Giáo Yếu Lư” vấn đáp, năm 1953, do
nhà xuất bản Tân Định in lần thứ 11, trang 102, “ Những điều vinh
hạnh đặc biệt của địa phận Sài G̣n” có viết.
Ø
Ngày 27/05/1900, Đức Giáo Tông Lêô XIII phong lên bậc
Á Thánh: Cha Joseph Marchand (Cố Du), Cha Philipphê Minh, Ông
Matthêu Gẫm.
Ø
Ngày 02/05/1909, Đức Giáo Tông Piô X phong lên bậc Á
Thánh : Cha Phêrô QUÍ, Ông Trùm Emmanuel Phụng, cha Phaolô Lộc, cha
Phêrô Lựu, ông Trùm Giuse Lựu và Phaolô Hạnh.
Ø
Tóm lại:
“QUÍ” là đúng tên của Thánh Nhân (không phải là QUƯ)
BỔ TÚC TIỂU SỬ THÁNH QUÍ
Ø
Linh mục
JEAN-CLAUDE PERNOT
(Xem tài liệu của MEP)
Ø
Sinh ngày: 17/11/1823
Ø
Cha là Claude Francois, làm nghề thợ may.
Ø
Mẹ là: Anne Pinaigre, nội trợ
Ø
Mùa thu 1839 (15 tuổi) vào tiểu chủng viện Luxeuil.
Ø
Năm 1841, vào học Triết ở chủng viện Vesoul
Ø
Năm 1843, học thần học ở Besancon
Ø
Ngày 18/09/1847 (lúc 24 tuổi), thụ phong linh mục.
Ø
Ngày 03/09/1851 (28 tuổi) vào Hội Truyền Giáo Paris.
Ø
Ngày 04/09/1852 đi Viễn Đông từ cảng Havre
Ø
Ngày 26/10/1852 đến Pinăng ( Malaysia )
Ø
ĐGM Lefèbvre Ngăi thuê tàu chở Cha đến nước Việt. Hơn
1 tháng th́ đến Đồng Nai. Sau đó đi thuyền đến Thị Nghè.
Ø
1853 – 1854 : Ở Thị Nghè
Sau đó, được sai đến Đầu Nước ở Cù Lao Giêng. Cha
Pernot ở tại nhà của ông Emmanuel Lê Văn Phụng. Họ Đầu Nước được
thành lập năm 1783 do 2 gia đ́nh Cai Thia ?- Ông Phụng với tính năng
hăng say và nhiệt thành tông đồ, dạy giáo dân, nâng đỡ họ, cố gắng
giúp họ về đạo giáo, dù gặp nguy hại, nhất là khi họ đau ốm và sắp
chết. Cha Pernot ở đây cho tới 1859.
Cha ở trong một nhà nhỏ, nấp trong góc kín của ngôi
nhà. Ban ngày phải ẩn ḿnh, cha chỉ đi ra ban đêm. Ở đó cha cử hành
các Bí Tích cho giáo dân mà ông Phụng kín đáo đưa đến. Ban ngày đôi
khi Cha phải im lặng và ở yên v́ các người lương do thám đến lục
soát phía bên kia vách nhà của Ngài. Nhiều lần cha
phải lật đật chạy trốn trong chỗ rậm gần đó, chân ở trong đầm nước
và muỗi căn khủng khiếp. Khi nguy hiểm qua rồi, người ta đến t́m cha
về.
Dù rất cẩn thận, nhưng họ cũng nghi ngờ có người Âu.
Hai người lương ở làng Tân Đức ở Cù Lao Giêng, quyết tâm bắt quả
tang. Một đêm nọ, họ trèo lên cây măng sau nhà ông Phụng, và cha
Pernot, không biết có nguy hiểm đă đi ra để thở không khí trong lành.
Ngay lập tức họ nhận ra Ngài. Họ đi tố cáo với Tổng Đốc Châu Đốc.
Ông gọi trưởng đội dân quân, ra lệnh chuẩn bị khoảng 20 chiếc thuyền
để đến Cù Lao Giêng. Nhưng người ta biết ngay lư do có cuộc sắp đặt
đó và một giáo dân vội vàng báo tin cho ông Phụng. Ông Phụng lúc đầu
không tin lời người này, ông nói: “Không thể có chuyện đó, ông Huyện
Cù Lao Giêng rất tốt với tôi, đáng lẽ nói cho tôi biết chứ”. Tuy
nhiên, các chiếc thuyền dân quân đă đến chọ Cho Thu (?), cách Đầu
Nước 6 km. Rồi thuyền chạy chậm để đến đêm th́ đến nhà ông Phụng,
được báo là cất giấu một người Tây.
Việc xuất hiện đội thuyền làm cho giáo dân trong lang
xôn xao. Một giáo dân đến nhà ông Phụng. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa,
v́ có tiếng mái chèo đập nước nghe rất rơ. Vội vàng, hối hả người ta
cất giấu đồ đạc gây nghi ngờ, và che giấu cha Pernot. Dưới sự hướng
dẫn của ông Gabrie Vi, cha chạy trốn trong rừng rậm và cũng khuyên
cha Quí trốn đi nhưng vị linh mục bản xứ trả lời: “Cha ơi, cha trốn
nhanh đi, c̣n con, con là người An nam, con sẽ không gặp khó khăn ǵ
đâu”. Sau một lúc, quân lính bao vây nhà ông Phụng, và siết chặt
ṿng vây để không ai có thể chạy thoát. Họ t́m kiếm khắp nơi, lục
soát các góc xó nhà tăm tối, nhưng vô ích, tuyệt đối không t́m thấy
ǵ cả. Cha Pernot đă đi kịp lúc, các đồ lễ cũng rời xa đó rồi. Ông
trưởng đội quân giận dữ, bắt giữ ông Phung, chủ nhà, muốn ông thú
nhận là ông có che giấu một nhà truyền giáo. Nhưng ông Phụng từ chối
nói ra và không chỉ bảo ǵ cả. Giận điên tiết, ông trưởng đội quân
ra lệnh bắt trói và đóng gông Cha P.Quí, ông E. Phụng và 32 bổn đạo
ở đó. Rồi dẫn họ về phủ Châu Đốc. Đó là ngày 07/01/1859. Vài tháng
sau đó, Cha Quí và ông Phụng bị kết án tử và hành h́nh. Cha Quí bị
chặt đầu, ông Phụng bị siết cổ. Ngày 13/02/1879 (20 năm sau) hai vị
tử đạo này được ĐGH Lêô XIII phong Chân Phước.
C̣n Cha Pernot lúc đó thế nào?. Suốt đêm, Ngài trốn
núp trong rừng. Sáng hôm sau, Ngài trở lại họ Đầu Nước, và tạm trú ở
nhà một giáo dân khác. Các bề trên nhận thấy cần đưa cha đi khỏi Họ
đó, nên vị thừa sai buộc phải trốn ở đáy thuyền và băng qua song,
đến với các giáo dân ở Ben Dinh (?) cách đó 25 cây số. Các giáo dân
ở đây quá sợ hăi nên từ chối cho cha ở. Có một phụ nữ can đảm, bà
Anna Thoa, nói với chồng: “Đừng sợ ǵ cả, chúng ta cứ cho cha ở nhà
chúng ta”. Lúc đầu người chồng không đồng ư, nhưng sau cùng với sự
nài nỉ của bà vợ, ông đồng ư và don một cái cḥi nhỏ ở trong bụi tre
gần nhà, bà Anna hằng ngày mang cơm nước đến cho cha. Ở đó chỉ được
ba ngày, Tổng Đốc Châu Đốc không muốn bỏ lơi con mồi nên ra lệnh lục
xét khắp nơi. Quan quân đến gần Bến Dinh rồi. C̣n thời gian nên phải
cứu vị thừa sai thôi. Đầu óc dân An nam đầy mưu mẹo. Họ lấy một
chiếc ghe chất đủ thứ lá: Tranh lợp nhà, rơm làm vách, lá dừa làm
cửa….Chiếc ghe chở người buôn lá trong một thời gian ngắn đă xuôi
ḍng nước. Vị thừa sai Pernot đă ng̣i trongmột cái lỗ mà người ta
bao quanh bằng đủ thứ lá. Lên bờ, đi đường bộ đến chợ gần đó, rồi
đến chợ kế tiếp, sau cùng cha đến Cái Nhum. Giáo dân ở đấy rất tốt,
người lương xung quanh cũng tốt và có thiện cảm. Họ đạo có ḍng Mến
Thánh Giá và có một tiểu chủng viện của truyền giáo.
Ø
Đầu năm 1860, ở Sài G̣n.
Ø
Năm 1861, về chủng viện Hội Truyền Giáo ở Paris .
Ø
Ngày 27/02/1904, qua đời ở Paris , thọ 81 tuổi.
VỀ LINH MỤC PHAOLÔ ĐOÀN QUANG ĐẠT:
Linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt sinh năm 1877 trong
một gia đ́nh công giáo tại B́nh Sơn (Búng), B́nh Dương. Đi tu ở Sài
G̣n và chịu chức linh mục năm 1911. Sau khi chịu chức, Ngài là thư
kư ṭa Tổng Giám Mục Sài G̣n, sau đó là linh mục phụ tá nhà thờ Tân
Định từ năm 1920 – 1933 và về phụ trách ở nhà thờ Bà Rịa từ năm
1933 – 1949. Ngài mất ngày 21/02/1956 và được an táng tại nghĩa
trang của giáo hội cạnh nhà thờ Chí Ḥa, thuộc quận Tân B́nh hiện
nay.
Linh mục Đoàn Quang Đạt là người sống khắc khổ, bị
bệnh hen. Ngài giỏi nhạc, họa và kiến trúc. Theo ghi nhận của lịch
sử công giáo , Ngài chính là tác giả vẽ thiết kế nhà thờ Biên Ḥa
hiện nay. Theo ông Nguyễn Văn Quí, sở dĩ linh mục Đạn Quang Đạt
viết nhạc là v́ những tác phẩm ca hát trong nhà thờ trước đây đèu là
nhạc nước ngại và bằng tiếng La tinh, số đông giáo dân hát không
được. Chính v́ vậy, Ngài liền nghĩ ra cách dịch lại những bài hát
này cho giáo dân hát. Những bài hát nhạc ngoại bằng tiếng Việt này
vẫn rất khó hát. Cuối cùng, Ngài viết hẳn những bài hát bằng tiếng
Việt kư âm theo nhạc lư phương Tây. C̣n linh mục Nguyễn Hữu Tấn,
Giám đốc Đại Chủng Viện Sài G̣n cho biết những bài hát của linh mục
Đạt rất khác với nhạc Tây, mà giống với giọng cổ của miền Nam hơn.
C̣n linh mục Đỗ Xuân Quế, đặc trách về thánh nhạc của giáo phận Sài
G̣n cũng thừa nhân linh mục Đạt “Rất giỏi về thánh nhạc” và bài hát
“Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời” của Ngài đến nay vẫn c̣n dung. Linh mục
Quế c̣n cho biết ngài được nghe kể linh mục Đạt đă nghiên cứu từng
bước chân trâu, ḅ đi trên đường để viết phần nhạc trong bài Nửa Đêm
Mừng Chúa Ra Đời và bài ca này ngài đă nghe từ những 1930 khi c̣n ở
miền Bắc….
Thế nhưng cha Đạt viết những bài hát ấy từ những lúc
nào?. Theo những tài liệu có th́ nhất ngài đă viết những bài hát
bằng Tiếng Việt từ trước năm 1913. Trong tập nhạc Ca Ngợi Rất Thánh
Trái Tim Đức Giêsu in tại nhà in Imprimerie de la Mission (nhà in
trong nhà thờ Tân Định) số 289 Rue Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà
Trưng) năm 1942 có ghi lời bạt của linh mục Phaolô Qui vào ngày
01/05/1913. Linh mục Qui mất năm 1914. Một tài liệu khác là cuốn
kinh Mục Lục Sài G̣n in năm 1899 có chép toàn bộ phần lời của bài ca
Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời, nhưng không có phần nhạc…..
Linh mục Giuse Bùi Văn Nho, chánh sở họ đạo Chợ Lớn
đă kể lại cho cha Micae Nguyễn Văn Minh, cha sở Họ Đạo Búng, một câu
chuyện như sau: Khi phổ nhạc bài hát “ Kính nguyện Chúa Thánh Thần”,
cha Phaolô Đạt đang đi làm lễ ở Bến Sắn trên xe ḅ và cột cái vơng
để ngài nằm. Con đường từ Búng đến Bến Sắn lúc đó đường gồ ghề, lồi
lơm, khúc khuỷu, ngoằn ngoèo, đá sỏi lởm chởm, lúc lên lúc xuống.
Trên đường đi, ngài đă bị cọp đuổi chạy. V́ vậy, bài hát ngài phổ
nhạc cũng tương tự như thế. Cha Phaolô Đạt viết bài này với âm thể
chính là FA trưởng và nhịp 6/8, nên có lúc dắt dẻo, có lúc du dương,
d́u dặt có lúc rượt đuổi giống như chuyển động của chiếc xe và chiếc
vơng trên đương Ngài đi làm lễ vậy.
C. NHÀ CÁC D̀ MẾN THÁNH GIÁ THỦ THIÊM CỘNG ĐOÀN BÚNG
1. QUÁ TR̀NH H̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CỘNG ĐOÀN
“Nơi đây ơn huệ chứa chan
Chính là cuộc sống Chúa ban muôn đời”
( Tv 133,1)
Cộng đoàn Búng là cộng đoàn khá lâu đời, năm trong
khuôn viên nhà thờ Búng, cùng một dăy với trường Tiểu Học. Ngôi nhà
trông cổ xưa, cũ kỷ nhưng thật ấm long, ấm t́nh chị em với những sẻ
chia trong cuộc sống. Hiện nay, có ba chị em là Anê Thượng Thị Tiếp,
Magarita Nguyễn Thị Tùng và Têrêsa Nguyễn ngọc Vinh. Cả ba đều là
người gốc Búng.
Thời bà Maria Nguyễn Thị Hiếm làm Bề Trên (1910 –
1916), năm 1915 Linh mục Martin Nghi xin các d́ về để giúp họ đạo.
Hai chị đầu tiên của cộng đoàn làd Anna Nguyễn Thị Hải và Maria
Huỳnh Thị Lai.
Bà Phanxica Rômana Nguyễn Thị Hơn (Út Hơn, d́ của cha
Đức, cha Khâm) là người quê ở Búng (sinh năm 1913) kể lại: “Khi các
d́ đến đây th́ d́ mới hai tuổi. Trong suốt thời gian ấu thơ, d́ chỉ
nghe nói tới cha Giuse Quận là cha phó lúc bấy giờ. Năm 1916 – 1924,
cha Anrê Miều về đây coi sóc họ đạo. Năm 1925, d́ lên 12 tuổi được
chịu phép Thêm Sức và Bao Đồng cùng một lượt.
Năm 1925, Cha Keller về họ Búng (giáo dân thường gọi
cha là ông cố Tây). Thời gian này, số giáo dân ngày càng tăng, hầu
hết bà con giáo dân ở đây đều sinh sống bằng nghề làm chén và làm
vườn. Tŕnh độ của giáo dân c̣n thấp không thể cộng tác được với cha
sở trong việc dạy dỗ các thiếu nhi trong họ đạo. Cha đă tạo điều
kiện để các d́ tham gia trong mọi sinh hoạt của họ đạo, nhất là việc
giáo dục các thiếu nhi. Nhờ đó số các em ngày càng đông với những
sinh hoạt đa dạng làm cho bộ mặt của họ đạo thêm sinh động, vui
tươi. Để có chỗ dạy các em, cha đă xây một ngôi trường nhỏ nằm cạnh
nhà các d́ để tiện việc dạy và trông coi nhà cửa. Ngoài ra các d́
c̣n cộng tác với cha trong một số công việc như: Dạy giáo lư, lo
việc pḥng thánh, tập hát ca đoàn và trông coi trẻ trong nhà thờ.
Trong khoảng thời gian cha Keller coi sóc họ Búng đă
có rất nhiều chị em luân phiên nhau đến cộng đoàn Búng
phục vụ. Các chị cũng không làm ǵ khác ngoài những việc đă kể trên.
Chính cha đă giúp xây ngôi nhà gạch, mái ngói mà các chị đang ở hiện
nay. Hồi đo, các chị c̣n xài nước giếng nhà cha sở.Hằng ngày, các
chị phải qua nhà cha khiêng nước về nhà, có khi huy động học tṛ phụ
khiêng nước về chứa trong thùng phuy để xài dần
Bà Têrêsa Avila Trần Thị Son (đă qua đời) cho biết:
“Năm 1932, d́ tới cộng đoàn Búng, lúc đó d́ 22 tuổi và mới khấn ra,
nên được các d́ giao cho dạy lớp năm, d́ lớn trong cộng đoàn lúc đó
là bà Anna Nguyễn Thị Thân (Mười Thân), bà rất dễ thương, vui vẻ
luôn lo lắng cho chị em. Thời của d́ không có điện, chỉ xài đèn dầu
thôi, các d́ dạy học ngày hai buổi, chỉ có một thánh lễ Misa vào
buổi sang, chiều các d́ cho học tṛ vào nhà thờ đọc kinh, viếng Chúa.
Cha Nguyễn Thới Mậu ngày xưa là học tṛ của d́”
Trong giai đoạn từ 1948 – 1962, D́ Maria Nguyễn Thị
Phánh và D́ Maria Phan Thị Dược đóng góp rất nhiều cho công tác tông
đồ, giáo dục và đào tạo ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Giáo dân ở đây rất quan tâm, tín nhiệm và biết ơn các
d́. Có những khó khăn ǵ, họ đến chia sẻ, xin các d́ hướng dẫn, góp
ư. Thỉnh thoảng họ đến thăm các d́ với giỏ trái cây theo mùa.
Vào các dịp hè (2 tháng) và têt (1 tháng)khi nhà Ḍng
nghỉ, các d́ đi ghe chở trái cây trong mùa của vùng Búng (măng cụt,
chôm chôm, sầu riêng, ḅn bon,…).
Năm 1963, do nhu cầu mục vụ ngày càng nhiều cũng như
việc dạy học phát triển, nhân sự của cộng đoàn đă tăng lên 5 người.
Năm học 1963 – 1964, có hai em nhà tập được bề trên
cho đi thử tại cộng đoàn Búng. Đó là chị Agnes Đoàn Thị Nghĩa
và chị Maria Nguyễn Thị Vậy. Khi đó d́ út Phánh phụ trách cộng đoàn,
các d́ dạy học: Cô Nghĩa dạy lớp nhất, D́ Maria Bùi Thị Dưng dạy lớp
nh́, Lớp ba D́ Maria Lê Thị Sinh, lớp bốn Cô Vậy dạy ở bên trường
Nam (hai pḥng ở phía ngoài đường cạnh nhà cha sở). D́ Maria Nguyễn
Thị Phánh tập hát và lo đi chợ (trước đó d́ đă làm hiệu trưởng
trường tiểu học Hưng Định nhiều năm)
Năm 1964, D́ Têrêsa Nguyễn Thị Huân đến cộng đoàn,
nhận trách nhiệm hiệu trưởng trường tiểu học Hưng Định của Nhà Thờ
Búng, kiêm phụ trách dạy lớp nhất của trường. Có khoảng 400 em học
tṛ , từ lớp năm đến lớp nhất, các d́ dạy tất cả các lớp này.. Bên
cạnh đó, cha sở c̣n mở thêm một trường Trung Học nhưng chỉ có hai
lớp đệ Thất và đệ Lục, thầy Tự phụ trách. Đặc biệt các d́ rất quan
tâm đến các em lớp cuối cấp để giúp các em thi tiểu học, hầu hết các
em đều đạt kết quả tốt. Ngoài việc dạy tại trường, các d́ c̣n nuôi
thêm khoảng 20 em nội trú từ xa đến đây học.
Nhưng công việc chính của các d́ bên cạnh công tác
giáo dục là cộng tác với cha sở trong việc mục vụ tông đồ: Các chị
dạy giáo lư các cấp, giáo lư tân tong và giáo lư hôn nhân, lo việc
pḥng thánh, điều khiển ca đoàn và sinh hoạt thiếu nhi……Đồng thời,
quí d́ tập cho các học tṛ có thói quen đến với Chúa Giêsu Thánh Thể:
Mỗi sang vào giờ ra chơi các em đến viếng Chúa, buổi chiều khi tan
học th́ ở lại đọc kinh. Thời gian này, phong trào Nghĩa Binh Thánh
Thể phát triển mạnh, làm cho sinh hoạt của họ đạo thêm phần khởi sắc.
Cuộc sống của các d́ cứ thế trôi đi êm ả với nhưng công việc thường
nhật. Cho đến sự kiện 30/04/1975, một số các d́ về tu gia, số khác
về Nhà Mẹ nên cộng đoàn c̣n lại các d́: Anna Nguyễn Thị Tám, Anna Lê
Thị kim Hoa, Anna Trương Thị Miều, Anê Cao Thị Cho và Anna Nguyễn
Thị xem vẫn tiếp tục công việc dạy học. Chẳng được bao lâu th́ bà
Tám đến tuổi hưu nên phải trở về hội ḍng.
Tháng 10/1976, nhà nước tiếp thu trường công giáo
Hưng Định, các d́ đành phải tạm chia tay với việc dạy học, và bắt
đầu với việc làm rẫy, làm ruộng….Hoàn cảnh càng lúc càng khó khăn
hơn, kinh tế cộng đoàn không đủ sống, v́ thế một số d́ phải về tu
gia c̣n lại d́ Kim Hoa. Năm 1977, d́ Anna Huỳnh Thị Mai lúc đó đang
tu gia, được bề trên gọi đến cộng đoàn cùng với d́ Kim Hoa phục vụ
họ đạo.
Năm 1982, d́ Kim Hoa được bề trên gọi đến cộng đoàn
Bến Gỗ, d́ Magarita Nguyễn Thị Tùng về thay thế. Năm 1983, cộng đoàn
có them d́ Têrêsa Nguyễn Ngọc Vinh.
Năm 1984, d́ Anê Thượng Thị Tiếp từ cộng đoàn Bảo Lộc
về hội ḍng và được bề trên gọi đến Búng. Ban ngày d́ dạy học tại
gia đ́nh, buổi tối d́ về cộng đoàn sinh hoạt chung với chị em. Sau
khi cha mẹ qua đời, v́ số học tṛ quá đông, nhà cộng đoàn lại chật,
cộng đoàn xin d́ tiếp tục dạy các em tại nhà của gia đ́nh d́ đến
nay.
Như vậy cho đên hôm nay đă có trên 145 chị em luân
phiên đến giáo xứ Búng phục vụ.
Đến cộng đoàn Búng, bạn sẽ cảm thấy dễ chịu, thoải
mái v́ ḷng hiếu khách của quí chị, Nhiều người lấy làm lạ: Tại sao
cả ba chị đều ở Búng, mà có thể hoạt động tông đồ được ở quê nhà,
nhất là lại được giáo dân thương mến và công tác rất đắc lực?. Phải
chăng đó là sự quên ḿnh của các chị, ḥa đồng và rộng răi với người
ngoài. Nói tới chị út Tùng, ai cũng nói chị có “lính” nhiều lắm. Hô
một tiếng là lính chị làm chu đáo. C̣n những học tṛ nào thuộcdạng
“siêu quậy” cứ đưa xuống chị Năm Tiếp, một thời gian sau em đó giống
như”cậu học tṛ gia lễ”(hiền lành, lễ phép). C̣n chị Năm Vinh đúng
là “em hiền như ma xơ”, lúc nào cũng thấy cười, nhưng lại rất chu
đáo trong bổn phận.
Sau biến cố 1975, nhờ sự giúp đỡ tận t́nh của cha sở
Micae Nguyễn Văn Minh và một phần may mắn là có một số chị em là
người địa phương nên công tác mục vụ cũng như việc dạy trẻ của cộng
đoàn được xuôi chảy mặc dù cuộc sống của các chị rất khó khăn v́
t́nh h́nh xă hội chưa ổn định.
Đối với việc mục vụ, các chị giáo lư các cấp, giáo lư
tân tong và giáo lư hôn nhân, lo việc pḥng thánh, giúp ca đoàn và
sinh hoạt thiếu nhi. Đặc biệt, các chị c̣n hướng dẫn một số thanh
thiếu niên trong họ đạo xác định ơn gọi của ḿnh.
Tại Búng, chị tổng phụ trách Agatha Trần Thị xanh
thành lập hiệp hội Mến Thánh Giá Tại Thế vào ngày 27/02/2000 với
khoảng 45 thành viên. Mỗi tháng 2 chị trợ úy tại Nhà Mẹ
đến giúp cho các hội viên: Chia sẻ lời Chúa , t́m hiểu về
tiểu sử, cuộc đời của Đáng Sáng Lập hoặc các đề tài về cuộc sống gia
đ́nh, đời sống tông đồ….Hằng tuần, hội viên họp mặt chia sẻ lời Chúa
dưới sự hướng dẫn của quí d́ tại cộng đoàn để giúp hội viên thăng
tiến hơn trong ơn gọi của những người yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu.
Các hội viên tham gia rất nhiệt t́nh và hiệp hội ngày một phát triển.
Ngôi nhà mái ngói cũ của công đoàn do cha Keller xây
dựng đă xuống cấp trầm trọng, rất dễ gây tai nạn. Bên cạnh đó, chị
em gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về mọi phương diện nhất là về
cơ sở vật chất, ít nhiều ảnh hưởng không tốt đến việc phục vụ, nên
chị tổng phụ trách Agatha đă tŕnh bày với cha sở Micae về nhu cầu
cấp thiết này và xin cha cho đất để làm nhà cộng đoàn, tạo điều kiện
thuận lợi cho chị em phục vụ tốt hơn. Cha đă họp Ban Điều Hành họ
đạo và đồng ư chấp thuận đề nghị này, ngày 05/01/2006, đệ đơn lên
Đức Cha Phêrô giáo phận Phú Cường và chính thức hiến tặng cho Hội
Ḍng một phần đất . Ngày 20/02/2006 là nghi thức đặt viên đá đầu
tiên bắt đầu công tŕnh xây dựng. Ngày 13/07/2006 mừng tân gia cộng
đoàn.
Đầu thế kỷ 21, vấn đề “di dân” là một điểm nóng, Giáo
hội quan tâm, xă hội quan tâm….V́ thế, nhờ sự trợ cấp 30.000 euro
của kỹ sư Leopold Bachmann ơqr Thụy sĩ, chị Agatha Trần Thị Xanh
quyết định lập nên nhà di dân Lâm Bích tại Búng, ngôi nhà này được
khánh thành ngày 26/02/2005.
Mục đích nhà trọ di dân lâm Bích, Là tạo điều kiện
cho các thiếu nữ nghèo từ các nơi xa có nơi trọ an toàn, đồng thời
hội ḍng c̣n cho các d́ đến giúp các thiếu nữ về nhiều phương diện :
Nâng cao kiến thức về nhân bản, chăm sóc sức khỏe và những vấn đề xă
hội, dạy nghề
Với một tấm long v́ Chúa, v́ Hội Ḍng, và v́ các linh
hồn, cộng đoàn Búng đă luôn như là ngọn đèn luôn cháy sáng giữa
những người thân quen, giữa anh em lương dân, nối kết t́nh than để
muôn ḷng như một, dệt nên bản t́nh ca: Tất cả là hồng ân.
E. ĐẤT THÁNH BÚNG

Đất Thánh ngày nay là khu vực được khai hoang cách
đây khoảng 200 năm, do cha con ông B́nh, Bà Hưng và ông Định. Khi
qua đời, phần mộ ông B́nh được chôn cất ở vườn cây điều.
Ngày thứ ba 17/10/2006, ông trưởng lăo Nguyễn Văn
Binh tổ chức bốc mộ. Có hai cái hủ cốt chon ở nấm mồ, cho rằng đó là
hai vợ chồng của con ông B́nh là ông bà Định, lư do hai hủ cốt là
khi trồng cây điều, tư Đắc đă lấy hai mộ đó và bỏ tro vào hai hủ này.
Sau phần nấm mộ th́ từ mật đất xuống 1,5 mét th́ đến
phần đất chôn ông B́nh. V́ lâu năm nên huyệt lộ ra
phân nữa theo đường đào, chứ không nguyên huyệt. Hai phần loại đất
khác nhau rơ rệt. Đất ở phần huyệt th́ mềm xốp, c̣n đất xung quanh
th́ cứng, đá sỏi….Những công nhân chuyên đào mộ đă biết tới nhuyệt,
và thớ đất ở huyệt, họ t́m kiếm nhưng không c̣n ǵ. Nắm đất ở huyệt
được lấy cho vào hũ, và đem về an táng tại đất Thánh.
Ngày thứ ba 31/10/2006, phân fmộ được hoàn tất, kịp
ngày 2 lễ lớn là Các Thánh Nam Nữ (01/11/2006) và lễ Các Đẳng
(02/11/2006).
Tại đất Thánh Búng có hai phần mộ cổ nhất là:
Phần mộ của Micae Kính, có mộ bia bằng đá xanh, khắc
chữ Pháp như sau:
ICI REPOSE Tạm
dịch Nơi An Nghỉ
MICHEL KÍNH
Micae Kính
Décédé le 10 Juin 1869
Qua đời ngày 10 tháng 6 năm 1869
Dan sa 61 année
Hưởng
thọ 61 tuổi
Như vậy ông Micae Kính sinh vào năm 1808 vào thời kỳ
Gia Long, họ đạo Búng c̣n phôi thai, chưa h́nh thành. Không rơ
nguồn gốc: ở tại Búng hay đến Búng định cư. Khi chết
là năm 1869, thời họ đạo Búng đă có nhiều giáo dân, nhưng chưa có
cha sở chính thúc định cư.
Phần mộ của Phaolô Tín : Đá ông đỏ bao quanh, mộ bia
bằng đá xanh, khắc chữ nôm 2 hàng, ở cuối tấm bia có ghi:
Ei sit Paul décécé
06/09/1872
Theo chữ nôm được dịch ra, ông Phaolô Tín, sinh năm
Đinh Hợi, tức là năm 1827, qua đời ngày 06/09/1972, hưởng dương 45
tuổi.
Ông Phaolô Tín này có phải là cha của ông Chư (người
giúp linh mục Phêrô Đoàn Công Quí trốn đi Bà Lụa) và của ông Kính (ông
Cố của Khai, Đắc và Mậu hay không?
Cha Mậu trả lời: không phải, ông Tín này ở Cầu Ngang.
Tôi(Patricio Tiền) suy đoán: Thánh Quí sinh năm 1826,
Ông Tín này sinh 1827, Thánh Quí làm linh mục năm 1858 (32 tuổi) lúc
đó ông Tín mới 31 tuổi, con c̣n nhỏ (ông Chư là con cả, mới khoảng
11 tuổi, không thể đưa cha Quí trốn đi Bà Lụa được). Vậy ông Phaolô
Tín này không năm trong gia phả ông B́nh, Hưng Định.
PHONG TỤC XƯA ĐẾN KHOẢNG NĂM 1960
Đất Thánh được chôn theo từng giới:
v
Từ ngoài cổng vào phía bên trái đến cây Thánh Giá ở
giữa Đất Thánh: Chôn giới đàn ông.
v
Cùng ở bên trái từ cây Thánh Giá ở giữa đến cuối Đất
Thánh: Chôn giới nữ
v
Từ ngoài cổng vào phía bên phải đến cây Thánh Giá ở
giữa Đất Thánh: Chôn đồng nhi nam
v
Cùng ở bên phải từ cây Thánh Giá ở giữa đến cuối Đất
Thánh: Đồng nhi nữ
NỮ
ĐỒNG NHI NỮ
NAM ĐỒNG NHI NAM
CỔNG
Khi chôn, đầu ở phía Đông (mặt trời mọc), chân ở phía
Tây (mặt trời lặn)
NHÀ NGUYỆN CÁC ĐẲNG

Cách đây hơn 200 năm, ngôi nhà nguyện đầu tiên của Họ
Đạo Búng được xây cất đơn sơ, cột cây, lợp tranh, h́nh thành nhóm
tín hữu đầu tiên của họ đạo. Nhà nguyện này được xây cấTcách đất
thánh ngày nay khoảng 1 km, ở phần đất của nhà ông Nguyễn Văn B́nh.
Rồi ông mất đi và được chôn cất trong vùng đất ông đă từng khổ công
khai hoang.
Ngày nay, vùng đất này được
gọi là Đất Thánh, hay nghĩa trang Họ Đạo búng. Ngày 02/11/1996, cha
sở đương nhiệm Micae Nguyễn Văn Minh đă khánh thành nhà nguyện các
đảng tại đất thánh này. Lư do những năm 1985 trở về sau đất đai hiếm,
các nghĩa trang khác bị giải tỏa dời đi….Người chết được hỏa táng
nhiều, cần phải có nơi xứng đáng để lưu giữ năm tro tàn quí giá của
họ. Cha Micae đă cho xây nhà nguyện các đẳng khang trang và đủ rộng
chỗ để lưu giữ những hũ cốt giáo dân. Theo tính toán th́ việc xây
cất đă tốn hết 132.403.500 đồng. Đức Ông (nay là Đức Tổng Giám Mục)
Phêrô Nguyễn Văn Tốt và cha sở Micae đă đóng góp tiền cá nhân cho
việc xây dựng là 40.000.000 đồng. Nhiều giáo dân đă góp công, góp
của cho việc linh thiêng này.
Cha sở Micae đă loan báo thêm tin vui ngày
02/11/2006, tại đất thánh Búng, khi dâng lễ cho các đẳng rằng : “Đất
Thánh này hiện nay đă có giấy chứng nhận (sổ đỏ) do chính quyền cấp”
Tóm lại, Đất Thánh đă tồn tại ngay từ khi lập họ đạo
với nhóm nhỏ tín hữu đầu tiên cho đến nay. Phần mộ ông tổ sáng lập
họ đạo và đất thánh nay đang nằm giữa con cháu. Hiếm có thay và đẹp
biết bao! về niềm tin công giáo, đât thánh này đang là nơi an nghỉ
của các vị Thánh (xưa từng là giáo dân bị bách hại, qua đời và chôn
tại đây) và của bao người con Thiên Chúa. Xin hăy giữ ǵn và bảo tồn
đát của các Thánh, đất thánh của họ đạo Búng.
Các ngày đáng nhớ ở đất thánh
v
Ngày 1 và 2 tháng 11 hàng năm:
Hiện có nhiều tín hữu ở các họ khác được phép về an
nghỉ ở đây. Tối 01/11 có hai thánh lễ cầu cho các đẳng. Đêm canh
thức này rất đông và thật ấm long, đạo hiếu của người sau đối với
tiền nhân thật sang tỏ vào những ngày này. Sáng 02/11, thánh lễ
chính thức cầu cho các đẳng, rất đông người từ xa về.
v
Ngày mồng hai Tết Nguyên Đán:
Nhiều người viếng mộ để kính nhớ ông bà, Tổ tiên….
ĐÔI LỜI CÁM ƠN
† † †
Ban biên soan quyển “Lịch
Sử Họ Đạo Búng”
xin chân thành ghi ơn Cha Sở Họ Đạo Búng và quí Cha đă giúp chúng
con các tài liệu quí giá. Chúng con cũng xin hết long tri ân các ân
nhân, các bạn trẻ trong họ đạo Búng đă giúp chúng con hoàn thành
quyển lịch sử này.
Năm 1988, quyển “
Kỷ Niệm Đệ Nhất Bách Chu Niên Nhà Thờ Họ Đạo Búng –
1888 – 1988”
ra đời, để đánh dấu 100 Họ Đạo phát triển trong ơn thánh và niềm vui.
Tuy nhiên, phần “Lịch sử họ đạo Búng” quá đơn giản. Do đó, chúng con
đă cố gắng sưu tầm tài liệu để hôm nay có được quyển lịch sử này.
Dầu sao, chúng con vẫn cảm thấy chưa thỏa măn v́ c̣n thiếu h́nh ảnh
và tiểu sử các linh mục đă phục vụ tại họ đạo, h́nh ảnh và tiểu sử
các linh mục gốc Búng.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi và Thánh Gia Thất chúc
lành cho tất cả những người cộng tác, và những ai sẽ đọc “Lịch
sử Họ Đạo Búng”,
với t́nh yêu Họ Đạo Búng, một họ đạo cổ xưa có trên 200 năm, đầy
truyền thống này.
BAN BIÊN SOẠN
NĂM ĐINH HỢI - 2007
|