Lược sử

Giáo Phận Quy Nhơn

 

Nguồn : Vietnamese Missionaries in Asia 

 

A. Lược Sử Giáo Phận Quy Nhơn

 

Sau hơn một thế kỷ truyền giáo đầy gian nan do các cha ḍng Đa Minh Bồ Đào Nha, rồi đến các cha ḍng Tên:

Ngày 18-1-1615, hai cha ḍng Tên F. Buzomi, D. Carvalho và thầy A. Dias tới Đà Nẵng. Lễ Phục Sinh năm đó, cha Buzomi đă rửa tội cho 10 người Việt. Nhờ quan trấn thủ Quy Nhơn, cha mở rộng vùng truyền giáo ở Quy Nhơn và Quảng Nam. Từ năm 1618-1620, tại Nước Mặn (Quy Nhơn) có 4 vị: các cha Buzomi, F. de Pina, C. Borri và thầy Dias; ở Hội An có cha P. Marques và hai thầy người Nhật. Từ đây, các ngài chính thức khai mở công cuộc truyền giáo không chỉ ở Quy Nhơn hay Đà Nẵng mà cả Đàng Trong. Từ 1615-1634, cha Buzomi đă can đảm và kiên tŕ rao giảng Tin Mừng. Từ vài người tín hữu lúc đầu, cha đă để lại con số ít nhất 12,000 người theo đạo, như cha Đắc Lộ đă kể lại trong Divers Voyages et Missions (tr. 117). Từ năm 1625-1665 chỉ có các cha ḍng Tên coi sóc. Năm 1665, thêm các vị thuộc Hội Thừa Sai Paris, thừa sai thuộc Thánh Bộ Truyền Giáo.

Ngày 26-7-1644, thầy Anrê Phú Yên đă làm chứng cho đức tin trước sự chứng kiến của chính cha Đắc Lộ. Sau đó, trấn thủ Quảng Nam Dinh phái một viên quan xuống Quy Nhơn lệnh cho mọi người theo Đạo Hoa Lang phải khai báo thành thật tên tuổi; chỉ trong một ngày đă có 700 người khai là theo Đạo Đức Chúa Trời, sự việc làm quan trấn vô cùng sửng sốt (x. Rhodes, Divers voyages, 1653, phần II, tr. 205-211).

Ngày 9-9-1659, Ṭa Thánh thành lập hai giáo phận: Đàng Ngoài và Đàng Trong do các vị đại diện tông ṭa cai quản. Giáo phận Đàng Trong do Đức cha P. Lambert de la Motte (1659-1679) coi sóc, ngài đến thăm mục vụ tại Quy Nhơn năm 1671. Quy Nhơn dần dần trở thành trung tâm truyền giáo ở Đàng Trong.

 Ngày 5-10-1841, Đức cha E.T. Cuénot Thể mở Công Đồng G̣ Thị với mục tiêu đào tạo hàng giáo sĩ cho giáo phận Đàng Trong và mở rộng vùng truyền giáo.

Năm 1844, Đức cha Cuénot, giám mục thứ mười giáo phận Đàng Trong, xin Ṭa Thánh phân chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: giáo phận Tây Đàng Trong gồm sáu tỉnh phía Nam, Cao Miên, và một phần nước Lào; giáo phận Đông Đàng Trong gồm các tỉnh miền Trung. Quy Nhơn nằm trong giáo phận Đông Đàng Trong do Đức cha Cuénot Thể coi sóc.

Năm 1850, Ṭa Thánh tách rời hai tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và nửa tỉnh Quảng B́nh lập thành giáo phận Bắc Đàng Trong (giáo phận Huế) và phần c̣n lại vẫn giữ tên giáo phận Đông Đàng Trong. Đông Đàng Trong bấy giờ gồm các tỉnh từ Quảng Nam tới B́nh Thuận (nay là các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên), vẫn dưới quyền cai quản của Đức cha Cuénot Thể. Thời vua Thiệu Trị, hàng giáo sĩ và giáo dân tạm yên (so với thời vua Minh mạng), nhưng vua Tự Đức đă làm cho hàng giáo sĩ và giáo dân tan tác. Sau khi Đức cha Thể làm chứng cho đức tin ngày 14-11-1861, giáo dân hoảng loạn, nhưng việc truyền giáo vùng Tây Nguyên vẫn được khởi sự. Sau năm 1862, khi vua Tự Đức hạ chỉ tha đạo, th́ năm 1885, một lần nữa giáo dân vùng Quy Nhơn lại phải gặp khó khăn với phong trào Văn Thân.

Ngày 3-12-1924, giáo phận Đông đổi tên theo địa bàn hành chính nơi đặt ṭa giám mục, lấy tên gọi giáo phận Quy Nhơn, do Đức cha Damien Grangeon Mẫn coi sóc.

Năm 1932, Ṭa Thánh tách rời miền Cao Nguyên, thuộc giáo phận Quy Nhơn, lập thành giáo phận Kontum.

Ngày 5-7-1957, Ṭa Thánh lấy tỉnh Khánh Ḥa và Ninh Thuận của giáo phận Quy Nhơn và tỉnh B́nh thuận của giáo phận Saig̣n lập thành giáo phận Nha Trang.

Ngày 24-11-1960, Đức Gioan XXIII lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, sắc chỉ công bố ngày 8-12-1960, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, giáo phận tông ṭa Quy Nhơn được nâng lên hàng giáo phận chính ṭa, Đức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi làm giám mục chính ṭa.

Ngày 18-1-1963, Ṭa Thánh lấy hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín của giáo phận Quy Nhơn lập thành giáo phận Đà Nẵng và chỉ định Đức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi làm giám mục tiên khởi, c̣n giáo phận Quy Nhơn th́ giao cho Đức cha Đôminicô Hoàng Văn Đoàn, O.P. Như vậy, giáo phận Quy Nhơn hiện nay chỉ c̣n ba tỉnh Quảng Ngăi, B́nh Định và Phú Yên.

Đức cha Đôminicô Hoàng Văn Đoàn qua đời ngày 20-5-1974. Kế vị ngài là Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, cai quản giáo phận từ 1974-1999 và Đức cha Giuse Phan Văn Hoa làm giám mục phó (1976-1987). Ngày 19-6-1999, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các được Ṭa Thánh cho nghỉ hưu, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn lên thay, lễ tấn phong và nhận chức vào ngày 12-8-1999. Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các qua đời ngày 3-6-2000.

 

B. Địa Lư và Dân Số

 

Ranh giới: Giáo phận Quy Nhơn nằm trên các Bắc vĩ tuyến từ 13-15 và trên kinh tuyến 109, vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Bắc giáp tỉnh Quảng Nam của giáo phận Đà Nẵng, Nam giáp Vạn Giă của giáo phận Nha Trang, Đông giáp biển Đông, Tây giáp các tỉnh Kontum, Gia Lai của giáo phận Kontum và tỉnh Đăklăk của giáo phận Ban Mê Thuột.

Diện tích: 17,100km2. Dân số 3,500,000 người (tính đến 31-12-2002). Số giáo dân Công giáo 62,520 người. Dân chúng sống bằng nghề nông, lâm ngư và thương nghiệp.

Sắc tộc: 90% là người Kinh, c̣n lại một số người Việt gốc Hoa, người Chăm, người Bahna, Cùa (Co), Hrê (Mọi Đá Vách).

Núi sông: Quảng Ngăi có nhiều núi như Cà Đam (cao 1,600m), núi Đá Vách (1,500m), núi U Ḅ (1,200m). B́nh Định có núi Teup (963m), Yon (967m). Quảng Ngăi có sông Trà Khúc (dài 120km), sông Vệ (80km), sông Trà Bồng... B́nh Định có sông Côn, sông La Tinh, sông Lại và sông Hà Thanh. Phú Yên có sông Đà Rằng và sông Kỳ Lộ.

 

C. Một số điểm đặc sắc của giáo phận

 

1. Nhà thờ chính ṭa:

Linh địa G̣ Thị, cái nôi của giáo phận Quy Nhơn. Đức cha Cuénot Thể đă chọn G̣ Thị làm giáo phủ v́ nằm ven đầm Thị Nại, dễ ẩn trốn khi bị bách hại, số giáo dân đông và ruộng đất ph́ nhiêu. Ngài đă nhờ ông trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông (thánh tử đạo) đứng tên mua đất. Ngài đă xây dựng nhà trường đào tạo các chủng sinh, nhà phước cho các nữ tu và cô nhi viện. Công đồng G̣ Thị đă được Đức cha tổ chức ở đây với sự tham dự của Đức cha phó D. Lefèbre Ngăi, cha chính J.C. Miche Mịch và 13 linh mục Việt Nam để đào tạo hàng giáo sĩ Việt cho Đàng Trong, mở rộng vùng truyền giáo cao nguyên và chuẩn bị chia giáo phận.

 

2. Đền thờ Thánh E.T. Cuénot Thể:

Đền thờ Thánh E.T. Cuénot Thể, tại Vĩnh Thạnh, G̣ Bồi, cách G̣ Thị 3km về hướng bắc bên bờ sông Côn thơ mộng. Đền được xây trên nền nhà bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lựu, nơi Thánh Giám Mục Stêphanô dâng thánh lễ cuối cùng trước khi bị bắt, và mất tại B́nh Định. Bà Huỳnh Thị Lựu cũng bị bắt vào dịp này, và đă tử đạo tại G̣ Chàm, B́nh Định.

 

3. Trại Phong Quy Ḥa:

Trại Phong Quy Ḥa nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 5km về hướng Tây Nam, do cha Paul Mabeu Mỹ, một linh mục thừa sai MEP người Pháp và bác sĩ Le Moine, trưởng ngành y tế Quy Nhơn, sáng lập năm 1929. Từ khởi đầu cho đến nay, các nữ tu ḍng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ vẫn tận tâm phục vụ hàng ngàn bệnh nhân phong tại đây, trong số đó có cả thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử. Mộ của nhà thơ vẫn là điểm dừng chân của nhiều du khách trước khi thăm viếng trại phong Quy Ḥa.

 

4. Danh lam thắng cảnh:

- Viện bảo tàng Tây Sơn: Đây là quê hương của Tam Kiệt Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Vùng núi không cao (800m) nhưng hiểm trở, nằm ở huyện B́nh Khê, nay là huyện Sơn Tây, tỉnh B́nh Định. Sau khi xưng vương ở đất Tây Sơn (1773), đại đế Quang Trung Nguyễn Huệ đă ba lần kéo quân ra Bắc. Chiến công hiển hách nhất của ông là tiêu diệt 50,000 quân Thanh của tướng Tôn Sĩ Nghị tại g̣ Đống Đa ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).

- Vương quốc Chiêm Thành: dọc theo bờ biển trong giáo phận, có rất nhiều di tích của vương quốc Chiêm Thành như: kinh đô Vijaya (Đồ Bàn hay Chà Bàn), thành Phúc Lộc, tháp Hưng Thạnh, tháp Tre Xanh...

 

5. Dự kiến trong tương lai:

Giáo phận Quy Nhơn là một giáo phận bị tàn phá v́ chiến tranh nặng nề nhất, thêm vào đó, v́ an ninh và sinh kế, một số đông giáo dân đă rời bỏ giáo phận và di tản tới nhiều nơi khác, do đó, giáo phận thất thoát to lớn về mặt chất xám cũng như tài chính. V́ vậy, ưu tư số một của giáo phận là nâng cao dân trí, xây dựng hạ tầng cơ sở, làm sao cho giáo dân thấm nhuần giáo lư để sống đức tin và vững mạnh. Để củng cố đức tin và ḷng mến cho giáo dân, giáo phận dưới sự chỉ đạo của Đức giám mục, đă đào tạo hơn 2,600 giáo lư viên và vẫn c̣n tiếp tục đào tạo nữa, để những người này tiếp tay với số linh mục ít ỏi trong việc tông đồ và truyền giáo.

Giáo phận cũng t́m cách gây quỹ để trợ giúp các em học sinh nghèo, nhất là thúc đẩy con em trong các giáo xứ chăm học, nếu không đạt được tŕnh độ đại học th́ ít ra cũng hết trung học (cấp III). Đây cũng là cơ sở để tuyển lựa ơn gọi linh mục, tu sĩ cho giáo phận, cho Giáo Hội. Ngoài ra, giáo phận cũng t́m cách mở những lớp huấn nghệ cho các em thanh niên nam nữ không phân biệt lương giáo. Giáo phận cũng đă bắt đầu gửi các linh mục trẻ ra nước ngoài để trau dồi thêm kiến thức và trao đổi những kinh nghiệm mục vụ.

Các vết thương chiến tranh nay vẫn chưa lành, nhất là ở những giáo xứ thuộc miền Bắc B́nh Định và Quảng Ngăi, xưa là những giáo xứ trù phú, nay có thể nói là rất hoang tàn. Do đó cố gắng to lớn của giáo phận hiện nay là phục chế, trùng tu, tôn tạo và xây dựng cũng như kiến thiết các nhà thờ. Kinh nghiệm độc đáo ở Việt Nam cho thấy họ đạo nào c̣n nhà thờ th́ giáo dân ở đó sốt sắng và lên tinh thần. Họ đạo nào nhà thờ đổ nát hay không c̣n nhà thờ nữa, giáo dân ở đó mang nhiều mặc cảm, lo âu, sợ sệt và đức tin yếu kém, không thoải mái trong việc làm ăn phát triển. Nhà thờ đối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay không những là nơi quy tụ mọi thành phần Dân Chúa, để thi hành mọi nghĩa vụ đạo đức, mà c̣n là nơi người giáo dân đặt niềm tin và hy vọng của ḿnh.

 

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)

Nguồn : http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnchurch/vnchurch.htm