|
Giáo phận Quy Nhơn
LỊCH
SỬ GIÁO PHẬN QUI NHƠN
THỜI
KỲ CÁC THỪA SAI D̉NG TÊN
< Nguồn : Website GP Quy Nhơn >
ĐOÀN THỪA SAI D̉NG TÊN ĐẦU TIÊN ĐẾN
ĐÀNG TRONG
1. Bối cảnh xă hội và công cuộc truyền giáo ở Việt
Nam vào cuối thế kỷ 16 – đầu thế kỷ 17.
Kể từ năm 1600, nước Việt Nam bị chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn phân chia, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Từ Sông Gianh ra Bắc được
gọi là Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh. Từ sông Gianh trở vô Nam được
gọi là Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn. Vua Lê đóng đô tại Thăng Long
vẫn được Đàng Trong và Đàng Ngoài thần phục, nh́n nhận là vua của đất nước.
Lúc bấy giờ Phú Yên là biên giới phía Nam của Đàng Trong.
Từ đầu thế kỷ XVI, tàu buôn người Bồ đă bắt đầu đi lại
buôn bán với người Việt và cũng đă có thừa sai Tây phương theo tàu buôn
của họ vào Việt Nam. Tuy nhiên các thừa sai nầy chủ yếu làm tuyên úy cho
các thương nhân Bồ hơn là chủ ư truyền giáo cho dân Việt.
Từ năm 1615, công cuộc truyền giáo tại Việt Nam được các
thừa sai Ḍng Tên từ Áo Môn đến tổ chức đầy đủ và liên tục. Áo Môn hiện
nay thuộc Trung Quốc. Lúc bấy giờ là một khu cảng thương mại của người Bồ.
Ngày 23.01.1576, Ṭa Thánh thành lập giáo phận Áo Môn bao gồm Trung Hoa,
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Tại đây có trung tâm truyền giáo của các
thừa sai Ḍng Tên.
2. Các thừa sai Ḍng Tên đầu tiên đến Đàng Trong
Ngày 18.1.1615, đoàn thừa sai Ḍng Tên đầu tiên tới Cửa
Hàn ( Đà Nẵng), được chúa Nguyễn cho lập cư sở tại Hội An gồm có cha
Francesco Buzomi (Ư), cha Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Diaz
(Bồ Đào Nha). Đây là mốc điểm lịch sử quan trọng trong công cuộc rao giảng
Tin Mừng cho Việt Nam. Biết được công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong đem
lại nhiều kết quả và hứa hẹn, Bề trên Ḍng Tên tại Áo Môn phái thêm các
thừa sai đến làm việc truyền giáo.
Vào tháng 7 năm 1618, với sự giúp đỡ nhiệt t́nh của ông
Trần Đức Ḥa, Khám lư Tuần phủ Qui Nhơn, Cha Francesco Buzomi, Cha
Cristoforo Borri ( Ư ), Cha Francisco de Pina ( Bồ ), Tu huynh Antonio
Dias, đă đến và thành lập trụ sở truyền giáo tại Nước Mặn. Ngày nay thuộc
thôn An Ḥa, xă Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh B́nh Định. Hiện nay,
công tŕnh kỷ niệm việc các thừa sai Ḍng Tên đầu tiên đến lập cơ sở
truyền giáo tại Nước Mặn đă được Ṭa Giám Mục Qui Nhơn xây dựng và hoàn
thành vào ngày 05 tháng 8 năm 2011.
Năm 1623, Cha de Pina được phái đến hoạt động truyền
giáo và lập cư sở ở Thành Chiêm, Quảng Nam. Như thế, từ thời điểm năm
1623, các thừa sai Ḍng Tên đă có 03 cư sở: Hội An, Nước Mặn và Thành
Chiêm. Từ ba cư sở nầy, các thừa sai Ḍng Tên đă đặt được nền móng cho
công cuộc truyền giáo tại Đàng Trong.
Theo báo cáo thường niên gởi về nhà Ḍng năm 1625, các
thừa sai tại Nước Mặn ban bí tích rửa tội cho 602 người, tại Hội An 325
người; tại Thanh Chiêm 306 người. Tính từ năm 1615 đến ngày 06/02/1665,
ngày chúa Hiền ra lệnh trục xuất tất cả các thừa sai, tổng số thừa sai
Ḍng Tên đă đến làm việc tại Đàng Trong là 38 người, thuộc 10 quốc tịch
khác nhau.
CÁC THỪA SAI D̉NG TÊN TIÊU BIỂU TRONG
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO TẠI ĐÀNG TRONG
Trong số những thừa sai Ḍng Tên đă đến làm việc tại
Đàng Trong, có cha Buzomi và cha Đắc Lộ là hai thừa sai mà tên tuổi sẽ
không bao giờ phai mờ trong lịch sử khai nguyên công giáo Việt Nam.
Cha Buzomi hoạt động truyền giáo tại Đàng Trong ngót
nghét 25 năm. Cha luôn bám sát giáo đoàn trừ những khi lệnh trục xuất quá
gắt gao không thể ẩn trốn nơi đâu, cha phải tránh qua Chiêm Thành, Cao
Miên hay về Áo môn. Nói về cha Buzomi, trong suốt thời gian hy sinh cho
giáo đoàn Đàng Trong, cha Đắc Lộ đă viết: “Thật là một người đạo đức thánh
thiện, hy sinh trong hoạt động, can đảm trong gian lao, cương quyết trong
định đoạt. Cha đă hoàn toàn hiến dâng hy sinh tất cả cho giáo đoàn xứ đó
và cha đă thành công. Bước vào Đàng Trong với một số vài người giáo dân,
lúc về trời cha đă để lại một con số ít nhất là 12 ngàn. Bao nhiêu giáo
dân là bấy nhiêu triều thiên của cha”. [1]
Tháng 12/1624, cha Đắc Lộ đến Đàng Trong. Cha ở Thành
Chiêm học tiếng Việt và những kinh nghiệm truyền giáo của cha de Pina.
Công việc sửa soạn đă tạm đủ. Tháng 7/1626 cha Đắc Lộ được bề trên ủy
nhiệm cho sứ mệnh mở đầu công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài cùng với cha
Pedro Marquez. Hai cha đến Cửa Bạng, Thanh Hóa vào ngày lễ thánh Giuse
19/3/1627. Sau hai năm làm việc truyền giáo, gặt hái nhiều kết quả, cuối
tháng Ba năm 1629, hai cha bị trục xuất về Áo Môn.
Trong suốt 10 năm ở Áo Môn nhưng ḷng cha Đắc Lộ vẫn ở
Việt Nam. Năm 1639, chúa Thượng Nguyễn Phước Lan trục xuất tất cả thừa sai
khỏi Đàng Trong. Cha Đắc Lộ được bề trên phái đến Đàng Trong. Trong hoàn
cảnh rất khó khăn từ năm 1640 đến năm 1645, cha Đắc Lộ phải sống chui, đi
đi về về giữa Áo Môn và Đàng Trong tới 04 lần. Trong thời sống chui đó,
cha Đắc Lộ đă lén đi thăm, an ủi giáo dân từ Cửa Hàn, Hội An, Hà Lam (Quảng
Nam); Chợ Mới, Bàu Gốc, Vom (Quảng Ngăi); Bến Đá, Gia Hựu (B́nh Định); đến
Dinh Trấn Biên ( Phú Yên).
Lễ Phục Sinh năm 1641, cha Đắc Lộ đến Phú Yên và ở đây
hơn hai tháng, thăm viếng tín hữu trong vùng, ban bí tích rửa tội cho
1.355 người. Trước khi rời Phú Yên, cha rửa tội cho 90 người tại nhà
nguyện Dinh Trấn Biên [2], trong số đó có Anrê Phú Yên. Năm sau cha Đắc Lộ
trở lại Phú Yên và nhận Anrê Phú Yên vào đoàn thầy giảng do cha thành lập
tại Hội An. Ngày 26 tháng 7 năm 1644, thầy Anrê Phú Yên chịu tử đạo. Hôm
đó, ngày mồng 3 tháng 7/ 1645, cha từ giă đất Việt thân yêu của cha. Cha
ra đi mang theo lễ vật quư giá: thủ cấp thầy giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo
tiên khởi của Giáo hội Việt Nam.
Ngày 09/09/1659, Ṭa Thánh đă thành lập hai giáo phận
đầu tiên tại Việt nam. Thành quả nầy phần lớn là nhờ công khó cha Đắc Lộ
đă vận động. Cha đă viết nhiều tác phẩm bằng chữ quốc ngữ có giá trị về
mặt tôn giáo cũng như mặt văn hóa và xă hội.
CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN: ĐƯỢC BIẾT VÀ
YÊU MẾN CHÚA GIÊSU
Theo lời cha Đắc Lộ xác nhận: “Đúng 03 năm trước khi
chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy”
(Người Chứng Thứ Nhất, trang 202).
Nhờ người mẹ đạo đức, Bà Gioanna, Anrê Phú Yên đă được
biết và yêu mến Chúa Giêsu. Nói được rằng Anrê Phú Yên đă lớn lên trong
bầu sữa đức tin của người mẹ. Linh mục Philipphê Bỉnh viết: “Bà rất chăm
sóc việc giáo dục cho Anrê về đường đức hạnh và đường học vấn”. (Truyện
Đàng Trăo, trang 46).
Được nhận tên Thánh Anrê khi chịu phép rửa tội, tên gọi
dân sự của thầy cho đến nay vẫn chưa t́m thấy bút tích nào để lại. Tên
thánh rửa tội Anrê cùng với quê quán là tên gọi của Anrê Phú Yên. Chúng ta
cũng không biết rơ về gia thế, căn cứ vào năm thầy tử đạo 1644, Cha Đắc Lộ
xác nhận lúc ấy thầy 19 tuổi, chúng ta biết được thầy đă chào đời năm
1625, là người con út trong gia đ́nh. Có thể thầy đă mồ côi cha trước khi
chịu phép rửa tội, mẹ thầy là bà Gioanna, một người mẹ công giáo đúng
nghĩa, chẳng những nuôi con khôn lớn mà c̣n dạy cho con biết đức tin, lối
vào sự sống đời đời. Vùng đất thuộc Giáo Xứ Mằng Lăng ngày nay có ḍng
sông Cái và ruộng đất màu mỡ là nơi gia đ́nh Anrê sinh sống.
Gần gũi với sông nước hữu t́nh, với thiên nhiên hiền ḥa,
với người mẹ đạo đức là những yếu tố tự nhiên ảnh hưởng tâm hồn của Anrê,
chuẩn bị cho Anrê đón nhận ơn thánh của Bí tích Thánh Tẩy và lớn lên trong
ơn thánh như Cha Đắc Lộ nói: “Thầy bản tính hiền lành, trong sạch, ngay
thật, rất có khả năng chịu mọi tác dụng của ơn thánh hóa. Mới chịu phép
rửa tội chưa bao lâu, thầy đă miệt mài trên đường nhân đức, và đă tiến bộ
mau chóng, đến nỗi chỉ trong thời gian ngắn đă đạt được tŕnh độ mà người
khác phải nhiều năm mới đạt tới”.
Đầu tháng 03 năm 1644, cả hai nhóm thầy giảng tập trung
về Đà Nẵng, lúc bấy giờ Cha Đắc Lộ cũng vừa mới từ Áo Môn trở về Đà Nẵng.
Cha con gặp nhau hàn huyên tâm sự và tạ ơn Thiên Chúa. Cuộc đời tận hiến
và làm việc truyền giáo đă chiếm lĩnh toàn bộ con tim, khối óc và sức lực
của các thầy giảng, cách riêng Anrê Phú Yên.
Được biết Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu và làm chứng
cho Chúa Giêsu là hành tŕnh đức tin thánh Tông Đồ Anrê đă đi. Sau 17 thế
kỷ, cũng từ miền sông nước, một Anrê khác theo gương vị Bổn mạng của ḿnh,
đă từ bỏ Sơng lưới, từ bỏ ruộng vườn, từ bỏ gia đ́nh...để dành trọn vẹn
t́nh yêu cho Chúa Giêsu. “Hăy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết hơi,
cho đến trọn đời” là châm ngôn sống của Anrê. Cha Đắc Lộ kể lại những giây
phút cuối cùng cuộc đời dương thế của thầy Anrê chiều hôm 26/07/1644:
“Người thanh niên thánh thiện nầy vẫn không ngớt đọc Thánh Danh Chúa Giêsu;
ngay khi đầu của thầy đă rời khỏi cuống họng, và nằm ngả trên vai bên phải,
tôi nghe thấy rỏ ràng tên cực trọng Giêsu phát ra từ vết thương nơi cổ,
cùng một giọng giống hệt như từ cửa miệng phát ra lúc trước; tôi nghe thấy
thế rất rơ ràng và tất cả những người gần tôi lúc ấy đều nói như vậy, vừa
vui mừng, lại vừa kinh ngạc. Thánh Danh Giêsu không thể phát ra từ miệng
thầy nữa, th́ lại phát ra từ trái tim thầy, ngay đang lúc thôi đập, để tỏ
rằng trái tim nầy dầu có chết, cũng c̣n giữ măi Thánh Danh kia, và khi
không thể dùng miệng lưỡi mà ca ngợi Danh Thánh Giêsu được, th́ thầy dùng
chính vết thương ḿnh mà ca ngợi Danh Chúa...” (NCTN-sđd, trang 156-157).
CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN: TÍN THÁC
HOÀN TOÀN VÀO T̀NH YÊU QUAN PH̉NG CỦA CHA TRÊN TRỜI .
Năm 1642 Cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên lần thứ hai, Anrê
Phú Yên ngỏ lời với cha Đắc Lộ, xin theo Cha giúp việc truyền giáo. Lúc
đầu cha Đắc Lộ từ chối v́ Anrê c̣n trẻ, hơn nữa trong thời buổi cấm đạo
việc di chuyển của đoàn truyền giáo có đông người là điều nên tránh. Tuy
nhiên sự kiên tŕ nài nỉ của Anrê và của người mẹ đạo đức, đến không để
van xin cho con út quư yêu của ḿnh được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’ mà đến
để van xin được đồng hành yêu mến và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thiện chí
đó đă khiến Cha Đắc Lộ gạt sang một bên cái lôgíc rất hợp t́nh hợp lư, rất
khôn ngoan, rất người kia, để nhường chổ cho cái lôgíc t́nh yêu quan pḥng
huyền nhiệm của Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn. Hoan hô Cha Đắc Lộ! Bài
giáo lư bao đồng Cha truyền lại cho Anrê Phú Yên không phải là những lời
nói suông mà là một thái độ sống ấn tượng. Anrê đă nhập tâm bài giáo lư
bao đồng ấy: Tín thác hoàn toàn vào t́nh yêu quan pḥng của Cha trên trời.
Ḷng tín thác ấy đă được tỏ lộ mạnh mẽ trong cuộc đời, nhất là lúc đối
diện với đau khổ và cái chết.
Trong sân nhà lao, Anrê Phú Yên đă khẳng định ḷng tín
thác đó khi nói với đám đông lương giáo vây quanh ḿnh: “Các anh em thấy
rơ tôi đây đă bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải v́ ăn cướp, giết người
hay làm thiệt hại ai, mà chỉ v́ tôi đă nh́n nhận Chúa tể trời đất và Con
Một Người xuống thế chuộc tội cho ta. Mọi sự ta có đều do Người. Thế mà
người ta lại muốn tôi phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ h́nh phạt nào
người ta có thể bắt tôi chịu, tôi chỉ sợ lửa hoả ngục đời đời. Hỡi anh em,
anh em hăy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời đă ban cho anh em ” (NCTN-sđd.
tr.148). Và khi đă bị lư h́nh hành quyết như Cha Đắc Lộ kể:“ Tôi mê hồn
nh́n thấy người thanh niên chân phước kia, lúc ấy quỳ gối, và đă bị đâm ba
lần ở sau lưng, chẳng những không ngă quỵ, mà lại không hề lay chuyển;
Thầy được vững mạnh như vậy trong ơn thánh sủng nâng đỡ Thầy; Thầy vẫn
luôn luôn không chuyển động, và tôi thấy diện mạo của Thầy không mất chút
nào về vẻ b́nh thản cũng như về màu sắc”. (NCTN-sđd, tr. 156)
“Những ǵ thế gian cho là điên dại, th́ Thiên Chúa đă
chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những ǵ thế gian cho là yếu kém,
th́ Thiên Chúa đă chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những ǵ thế gian
cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, th́ Thiên Chúa đă chọn để hủy
diệt những ǵ hiện có” (1C 1,27-28).
Quả vậy, Thiên Chúa T́nh Yêu và Toàn Năng đă làm những
điều đó nơi cuộc đời thầy Anrê Phú Yên. Cha Đắc Lộ viết:“Thầy sống giữa
chúng tôi như một vị thánh nhỏ”. Quả vậy, Anrê nhỏ con, nhỏ người, ốm yếu,
làm những việc nhỏ: Dọn bàn thờ, làm hang đá, chăm sóc bệnh nhân..., nhỏ
nhất trong nhóm thầy giảng Đàng Trong, nhỏ tuổi đời, nhỏ tuổi đạo, nhỏ
tuổi tu: Sinh năm 1625, rửa tội năm 1641, nhập đoàn thầy giảng năm 1642,
khấn trọn năm 1643, tử đạo năm 1644. “Ơn Ta đủ cho con” (2C 12,9). Thiên
Chúa đă chọn và ban ơn đủ cho người con nhỏ đầy ḷng tín thác vào Ngài.
Qua Anrê Phú Yên, một lần nữa ‘con đường thơ ấu’ của Tin
Mừng được chứng nghiệm. Càng khiêm nhường, ơn Chúa càng cao dày; càng trở
nên bé thơ càng đón nhận được nhiều âu yếm của Thiên Chúa, “Như người mẹ
âu yếm con ḿnh, cũng thế, Ta sẽ an ủi con, Ta sẽ bồng con trên ngực của
Ta, và Ta sẽ ru con trên gối của Ta’’ (Is 66, 12-13).
CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN: QUÊN M̀NH ĐỂ
PHỤC VỤ
Nơi trường thầy giảng ở Hội An, Anrê theo đuổi việc tu
đức và học vấn nhưng không bỏ qua những việc cần làm để giúp đỡ người khác,
như Cha Đắc lộ nhận xét người học tṛ nhỏ của ḿnh: “Người thầy không khỏe
mạnh ǵ lắm, thế mà việc khó mấy trong nhà, thầy cũng làm luôn, nhiều khi
lại làm quá sức ḿnh; thầy quên ḿnh để giúp kẻ khác”. Sự thông minh và
những khả năng của thầy chẳng làm hại chút nào đến đường tu đức của thầy:
“Tất cả những lợi điểm đó chẳng làm cho thầy có chút vẻ ǵ là kiêu ngạo
hay tự măn: Thầy coi ḿnh như kém hết mọi người, và không có ǵ làm cho
thầy bằng ḷng hơn là được dịp phục vụ người khác”.
Ngày 25 tháng 7 năm 1644, ông Nghè Bộ cho lính đến trụ
sở Ḍng Tên tại Hội An t́m bắt thầy Inhaxiô theo lệnh bà Tống Thị. Hôm ấy
Cha Đắc Lộ và thầy Inhaxiô cùng với 04 thầy khác đang đi làm việc tông đồ,
thầy Anrê Phú Yên ở nhà săn sóc 04 thầy trong nhóm đang bị bệnh. Toán lính
không t́m thấy thầy Inhaxiô, Thầy Anrê bạo dạn nói với toán lính: “Nếu các
ông muốn bắt thầy Inhaxiô th́ vô ích v́ Inhaxiô không có ở đây. C̣n muốn
bắt tôi th́ rất dễ dàng, tôi là tín hữu, hơn nữa là thầy giảng. Tôi có cả
hai tội mà các ông khép cho thầy Inhaxiô để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có
tội th́ tôi làm sao vô tội được”.
Toán lính không bỏ lỡ cơ hội, họ bắt và trói thầy Anrê
như chiên hiền lành không chống cự. Sau đó toán lính lôi một thầy đang đau
nằm trên giường, định bắt giải đi. Thầy Anrê dịu ngọt thuyết phục, họ để
cho thầy ấy được tự do, c̣n chính người van xin biện hộ cho anh em th́ lên
đường khổ nạn.
Với đức nhân, với ḷng dũng cảm, với trí khôn ngoan cùng
với ơn thánh, thầy Anrê quyết định để cho lính bắt thầy mau chóng như thế;
có thể v́ thầy đă nghĩ rằng: Thầy là người em út trong nhóm thầy giảng,
thầy có mất đi cũng không ảnh hưởng ǵ đến sinh hoạt, đến sự sống c̣n của
nhóm. Trong khi nếu thầy Inhxiô, người anh cả khôn ngoan, bản lĩnh...mất
đi th́ sẽ ảnh hưởng lớn đến nhóm. Cha Đắc Lộ là sư phụ, là linh hồn của
nhóm, nhưng sự hiện diện của cha có tính cách bấp bênh v́ lệnh trục xuất
của ông Nghè Bộ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó sự hiện diện của thầy
Inhaxiô luôn luôn cần thiết cho anh em, cho công cuộc truyền giáo. Để cho
lính bắt thầy như một ‘chiến lợi phẩm’, điều đó có thể làm dịu đi việc
truy t́m thầy Inhaxiô, đồng thời là tiếng chuông báo động nguy hiểm cho
thầy Inhaxiô để có thể trốn thoát.
Nghe hung tín, Cha Đắc Lộ vội vàng cho các thầy giảng
t́m nơi ẩn núp. C̣n thầy Anrê đă chọn hy sinh, quên ḿnh làm hướng đi và
thầy đă trung thành đến hơi thở cuối cùng với lựa chọn của ḿnh.
Ông Nghè Bộ ra lệnh thi hành bản án nội trong ngày hôm
ấy, 26-7-1644. Khoảng 05 giờ chiều, bốn mươi người lính áp giải thầy Anrê
ra pháp trường G̣ Xử, cách Dinh Trấn chừng nữa dặm (800-1000m). Tại G̣ Xử,
lính đứng bao quanh thầy Anrê Phú Yên. Cha Đắc Lộ được phép viên chỉ huy
cho vào săn sóc thầy Anrê trong giờ phút sau hết theo lời Cha thỉnh cầu.
Cha Đắc Lộ trải chiếu cho thầy quỳ, nhưng thầy xin được quỳ trên đất để
máu thấm xuống đất như Chúa Giêsu xưa. Lính tháo gông rồi lấy dây thừng
trói quanh người thầy, thầy biết đă đến giờ phải nói lời từ biệt. Thầy
quay lại nh́n cha Đắc Lộ và các giáo hữu rồi nói: “Hăy giữ nghĩa cùng Chúa
Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”.
NHỮNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN TIÊU BIỂU
Khi Tin Mừng đến Việt Nam, đủ mọi từng lớp trong xă hội
đă đón nhận và nhiệt t́nh loan báo Tin Mừng. Trong số đó có những tông đồ
giáo dân tiêu biểu như:
- Các Thầy giảng.
- Bà Minh Đức Vương Thái Phi.
- Bà Maria Mađalêna, Ngọc Liên Công Chúa, vợ quan trấn
thủ dinh Phú Yên, được rửa tội năm 1636.
- Hai vợ chồng vị sứ thần của chúa Nguyễn được phái sang
Cao Miên, cả hai cùng theo Chúa với trên 20 gia nhân vào năm 1621 tại Nước
Mặn (B́nh Định). Ông tên thánh là Inhaxu, bà là Ursula.
1. Các Thầy giảng
Cha Đắc Lộ nhận xét về các thầy giảng: “Tôi không thể
nói đến ơn Đức Chúa Trời xui khiến 10 thanh niên đến hợp tác với tôi trong
việc truyền bá Đức Tin. Mười thanh niên này ở các tỉnh khác nhau. Tất cả
đều dâng ḿnh cho Chúa và tận tâm với Hội Thánh. Trong số ấy có 3 người
được phúc tử đạo là Thầy Anrê Phú Yên, Thầy Inhaxiô, trước đă làm quan,
thông Hán học, có nhân đức cao cả, và Thầy Vinh Sơn[3]” (Voyages et
Missions, 1854, trang 187-188).
2. Bà Minh Đức Vương Thái Phi
Bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1649) là vợ cuối cùng
của chúa Nguyễn Hoàng, là mẹ của Hoàng tử Khê. Bà tin Chúa và theo Chúa
vào năm 1625 do cha de Pina làm phép rửa tội với tên thánh Maria Mađalêna.
Những tín hữu được khai sinh trong nhà bà Minh Đức:
Sau khi nhập đạo, bà Minh Đức hằng lo lắng cho con cháu
bà cũng được ơn nhận biết Chúa. Lo cho con cháu trở lại chưa đủ, bà Minh
Đức c̣n làm việc tông đồ trên một phạm vi rộng răi hơn nữa, giữa đồng bào
khắp nước. Bà đă nhiệt thành cộng tác vào việc tông đồ dưới mọi h́nh thức:
xây dựng nhà thờ, giúp đỡ các thừa sai, che chở giáo dân, làm gương sáng,
khuyên nhiều người tin Chúa, trong số nầy đáng kể có Thầy giảng Inhaxiô,
nguyên là quan chức trong dinh của Hoàng Khê.
Sau khi cha Đắc Lộ bị bắt buộc rời khỏi xứ, Thầy Inhaxiô
cùng các thầy giảng khác và nhất là bà Minh Đức, đă trở nên cột trụ cho
tất cả bổn đạo nương cậy trong lúc thiếu bóng linh mục. Bà hưởng thọ ngoài
80 tuổi, thủ tiết 36 năm, và đă can đảm giữ Đức tin, tận tụy với việc tông
đồ trong khoảng 24 năm liền.
3. Bà Ngọc Liên Công Chúa
Cha Đắc Lộ ghi nhận về bà Ngọc Liên: “Một bà nhân đức
tên là Maria Madalena, vợ quan trấn thủ, đă làm nhiều việc thiện trong
tỉnh Phú Yên, bà c̣n là một người sáng lập một bệnh viện để chăm sóc tất
cả giáo dân và người tân ṭng bị chứng bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy
người cùi sẵn sàng chịu phép rửa tội, để được trong sạch trong linh hồn.
Mỗi ngày người ta giảng dạy những điều cần thiết để chuẩn bị phép bí tích
ban ơn thánh, có mấy người bổn đạo cũ đến giúp và dự vào việc huấn giáo”
[4]. Ngôi nhà thương của bà Maria Mađalêna ở Phú Yên mở đầu cho các công
cuộc từ thiện của Giáo hội Việt Nam. Ngoài ra bà c̣n cung cấp lương thực
cho 12 thầy giảng và một số người nghèo khổ, neo đơn. Năm 1674 bà c̣n sống
và vẫn dạy giáo lư. Không biết bà đă qua đời khi nào.
NH̀N LẠI KINH NGHIỆM TRUYỀN GIÁO CỦA
CÁC THỪA SAI D̉NG TÊN
Trong tinh thần uống nước nhớ nguồn, biết ơn tiền nhân,
soi gương người xưa, nh́n lại hoạt động truyền giáo của các thừa sai ḍng
Tên trong 50 năm ở Đàng Trong (1615-1665) và 37 năm ở Đàng Ngoài
(1626-1663), xét trên yếu tố con người, chúng ta có thể nói rằng công quả,
hay thành công của các thừa sai Ḍng Tên có được là do các ngài làm việc
có phương pháp: tận dụng và thích nghi.
1. Tận dụng những thuận lợi
- Năng tiếp xúc với các quan chức cũng như tiếp cận
người dân Việt sẳn có đời sống thanh bạch, chất phác và tâm hồn từ bi
thương người, tôn trọng lễ nghĩa cương thường, nhằm kiến tạo cảm t́nh,
hiểu biết nhau.
- Không có óc bài ngoại, nên các thừa sai được giáo dân
tôn trọng, quư mến, được coi như những người cha trong nhà. Với t́nh nghĩa
thầy tṛ, các thừa sai có thể t́m dễ dàng những người cộng tác trung thành
và quyến luyến trong hoạt động tông đồ giáo dân, đặc biệt tổ chức thầy
giảng là một tổ chức đă được đề cao trong lịch sử truyền giáo Việt nam.
- Dùng người Việt để loan Tin Mừng cho người Việt. Các
thừa sai đă kể cho chúng ta biết bao kết quả thu lượm được do việc tin
tưởng, đào tạo giáo dân đạo đức, khơi động tinh thần truyền giáo những
giáo dân như bà Maria Minh Đức, Bà Ngọc Liên công chúa, và nhiều những
‘tông đồ giáo dân b́nh dân’ xuất sắc trong lănh vực và nghề nghiệp của
ḿnh như bà Gioanna, vừa tảo tần buôn bán vừa đem Tin Mừng đến cho hơn vài
chục người. Cụ nghè Giuse, người được kính nể trong trấn Quảng Nam. Cụ
được cha de Pina dạy giáo lư. Cụ t́m đến Nước Mặn gặp cha Buzomi để đối
chiếu giáo thuyết của hai cha. Cụ quyết định theo Chúa và đă thuyết phục
được nhiều người trong nho giới theo Chúa. Trong số đó có cụ Phêrô, cụ
Manuêlê và nhất là cụ Phaolô, cố vấn h́nh luật của quan trấn Quảng Nam.
Như hương thơm tỏa lan, từ uy tín, ảnh hưởng các cụ kể trên, nhiều người
đă theo Chúa.
2. Thích nghi hoàn cảnh và môi trường xă hội
Có nhiều thuận lợi nhưng không thiếu thánh giá. Nhiều
phen các thừa sai bị trục xuất v́ những lư do khác nhau. Các ngài phải
trốn lánh và kiên tŕ vào ra, lui tới vùng truyền giáo như những điệp khúc.
Các thừa sai rất hy sinh. Hy sinh ‘bánh ḿ’ người Âu
châu để ‘ăn cơm’ với người Việt. Nhà tranh vách đất như người dân Việt.
Một thừa sai có thể phụ trách cả một giáo đoàn rộng lớn, không mấy lúc
được nghỉ ngơi, nhiều đêm thức trắng liên tiếp dạy giáo lư, giải tội, yên
ủi giáo dân. Tất cả một đời hy sinh vô bờ bến.
Bên ḷng hy sinh đó, các thừa sai không hề nghĩ đến việc
trục lợi cho ḿnh, cho Ḍng ḿnh hay cho quốc gia ḿnh. Trong các bản
tường tŕnh hay các sách để lại, chúng ta không hề thấy đả động đến vấn đề
quốc gia của các ngài. Tất cả cho dân Việt, không pha trộn vấn đề chính
trị trong vấn đề tôn giáo.
Chúng ta cũng nhận thấy các thừa sai rất chịu khó đồng
hóa với người Việt để t́m hiểu văn hóa, phong tục, tính t́nh, ḥa ḿnh với
nếp sống Việt, thích ứng đạo lư với tŕnh độ tinh thần và t́nh trạng xă
hội của người Việt. Chữ quốc ngữ là một công tŕnh thích ứng lớn lao xây
dựng nền văn hóa Việt Nam nói chung và cách riêng một nền văn hóa Kitô
giáo.
Câu hỏi thảo luận:
CÁC THỪA SAI D̉NG TÊN VỚI NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM
1. Chữ quốc ngữ
Việc khai sinh chữ quốc ngữ là sự chung tay góp sức của
nhiều thừa sai Ḍng Tên trong thời kỳ khai sinh Giáo hội Việt Nam. Giai
đoạn đầu phải kể đến sự đóng góp của các thừa sai ở Nước Mặn như cha de
Pina, cha Borri, cha Buzomi. Công lao của các thừa sai khác như: cha
Gaspar d’Amaral, cha Antonio Barbosa và nhất là cha Đắc Lộ là ở các giai
đoạn sau. Ngoài ra cũng phải kể đến sự cọng tác của những kitô hữu Việt
Nam. Cha de Pina đă được giúp đỡ bởi một học giả trẻ người Việt có tên
thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ Hán bậc nhất" (Roland, tr. 3). Cha
Đắc Lộ bày tỏ ḷng biết ơn bằng những lời cảm động: "Giúp tôi là một cậu
bé bản địa tuyệt vời, người đă dạy tôi trong ba tuần tất cả các thanh điệu
của tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ". (Alexandre de Rhodes,
Voyages et Missions, 1854, tr. 89)
Theo cha Joaơ ROIZ, năm 1620 đă có hai thừa sai nói thạo
tiếng Việt đó là cha Pina và cha Borri (Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc
ngữ, Sài G̣n 1972, trang 79).
Cha Francesco de Pina sang Việt Nam khoảng cuối năm
1617, lúc người ta đang săn đuổi các thừa sai. Năm 1618, cha về ở tại Nước
Mặn, cha mới có điều kiện nghiên cứu và học tiếng Việt. Cha ở Nước Mặn hai
năm, sau đó cha đi đi về về giữa Nước mặn và Hội An. Cha Chiristoforo
Borri sang Việt Nam và chỉ ở tại Nước Mặn từ năm 1618 đến năm 1621 rồi trở
về lại Ma Cao. Do đó, có thể nói Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ.
2. Những đóng góp quư hóa về xă hội và văn hóa.
Các thừa sai Ḍng Tên không chỉ góp phần xây dựng nền
văn hóa Việt Nam trong việc sáng kiến ra chữ quốc ngữ. Với các sách đă
xuất bản, các ngài đă để lại cho chúng ta một kho tài liệu quư hóa về lịch
sử, địa lư, phong tục, tôn giáo của người Việt Nam thời đó. Các ngài là
những người đầu tiên đem nền văn minh Tây phương vào nước Việt và làm
trung gian liên lạc hai nền văn hóa Âu Á, nhờ các ngài mà thế giới biết
nước Việt chúng ta và trọng người dân Việt.
Trong thời gian 50 năm truyền giáo, các thừa sai đă cho
xuất bản gần 80 cuốn sách các loại. Trong số các tác phẩm đó, những sách
đáng chú ư nhất về lịch sử, địa lư, phong tục, tôn giáo của người Việt là
cuốn “Tường tŕnh về khu truyền giáo Đàng Trong” của cha Borri xuất bản
lần đầu tiên năm 1631, và cuốn “Lịch sử xứ Bắc Kỳ” của cha Đắc Lộ. Ngoài
ra cũng phải nhắc đến hai tác phẩm của cha Đắc Lộ: “Văn phạm Việt ngữ” và
“Từ điển Việt-Bồ-La”.
3. Tiên khởi khai sinh một nền văn
chương Công giáo
Những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha viết cho giáo
dân và cho các thầy giảng là những cuốn sách đầu tiên trong tủ sách văn
chương công giáo Việt Nam. Đáng chú ư là cuốn sách bổn “Phép Giảng Tám
Ngày” của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma. Các cuốn sách khác
bằng chữ nôm của cha Majorica, gồm nhiều thể loại: truyện thánh, sách gẫm,
kịch tuồng… Theo cha Marini th́ cha Majorica đă viết hoặc dịch tất cả 48
cuốn thuộc nhiều thể loại để hướng dẫn đời sống giáo dân trong những khi
vắng mặt các thừa sai. Rất tiếc cuốn sách về đạo lư công giáo đầu tiên
bằng tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, do cha Buzomi và cha de Pina cho ra
đời được cha Đắc Lộ nhắc đến nhưng đă bị thất lạc.
Tác giả bài viết: GPQN
|
|