|
Giáo phận Quy Nhơn

GIÁO PHẬN QUI NHƠN
DƯỚI THỜI VIỆT MINH
(1945-1954)
NGUYỄN CÔNG LUẬN
Trước 1945, giáo phận Qui Nhơn gồm 6 tỉnh miền Trung: Quảng nam,
Quảng ngăi, B́nh định, Phú yên, Khánh ḥa và Phan rang, do Đức Giám
mục người Pháp là Đức Cha Marcel Piquet ( tên tiếng Việt thường gọi
là Đức cha Lợi) cai quản. Sau khi Việt minh cướp chính quyền mùa thu
1945, Ngài cùng các linh mục thừa sai ngoại quốc đều bị bắt đưa về
tập trung tại Nha trang chờ ngày rời Việt nam theo lệnh trục xuất
của nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Đức Giám mục ủy nhiệm cho Linh mục
Phêrô Đặng Quyền Huy làm Bề trên Nhiếp chính, đại diện Ngài chăm sóc
giáo phận. Trước 1945, giáo phận Qui Nhơn gồm 6 tỉnh miền Trung:
Quảng nam, Quảng ngăi, B́nh định, Phú yên, Khánh ḥa và Phan rang,
do Đức Giám mục người Pháp là Đức Cha Marcel Piquet ( tên tiếng Việt
thường gọi là Đức cha Lợi) cai quản. Sau khi Việt minh cướp chính
quyền mùa thu 1945, Ngài cùng các linh mục thừa sai ngoại quốc đều
bị bắt đưa về tập trung tại Nha trang chờ ngày rời Việt nam theo
lệnh trục xuất của nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Đức Giám mục ủy nhiệm
cho Linh mục Phêrô Đặng Quyền Huy làm Bề trên Nhiếp chính, đại diện
Ngài chăm sóc giáo phận.
Trong khí thế hăng say giành được độc lập sau hơn 80 năm bị đô hộ,
người công giáo cũng sát cánh với đồng bào không phân biệt tôn giáo
tham gia mọi công tác xây dựng đất nước do Việt minh đề xướng. Tại
B́nh định, Linh mục Nguyễn Đức Tín (tân Giám đốc Đại Chủng viện)
được cha Bề trên chấp thuận ra ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách
công dân. Ở Phú yên, Linh mục Nguyễn Thanh Liêm, chính xứ Sông cầu,
được Đống Dục, chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh mời vào ban Thường vụ
Liên Việt tỉnh và sau này lên Ủy viên Mặt trận Liên Việt Liên Khu V.
(Thật ra việc cha Liêm gia nhập Mặt trận Liên Việt không được sự
đồng ư của cha Bề trên Địa phận, nhưng do áp lực của Nguyễn Nên, một
tín hữu công giáo thuộc họ đạo Sông cầu theo Việt minh từ khi c̣n
hoạt động bí mật và bấy giờ trở thành Tư lệnh phó Trung đoàn 84 Chủ
lực tỉnh, đành phải chấp nhận.)
Sau khi quân Pháp - theo chân quân đội Hoàng gia Anh vào Việt nam
tước khí giới quân đội Nhật - tái chiếm Sài g̣n Chợ lớn rồi bắt đầu
mở rộng chiến tranh khiến cho chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, lănh
thổ miền Nam Trung bộ lúc bấy giờ được phân ra hai khu vực rơ rệt:
Nam từ Đèo Cả trở vào, Bắc từ sông Thu bồn trở ra, Tây từ đèo An khê
trở lên là vùng thuộc Pháp, Việt minh gọi là vùng bị chiếm. Phần c̣n
lại từ mạn nam sông Thu bồn cho đến bắc Đèo Cả do Việt minh kiểm
soát được gọi là vùng tự do Liên Khu V. Giáo phận Qui nhơn thuộc
quyền cai quản của Linh mục Đặng Quyền Huy với thẩm quyền Giám quản
Tông Ṭa do sắc lệnh bổ nhiệm của Toà Thánh giới hạn trong phần lănh
thổ này.
Suốt 9 năm gọi là "kháng chiến chống Pháp", Giáo phận phải đương
đầu với nhiều khó khăn trở ngại. Sau đây là những vụ điển h́nh:
TỔ CHỨC CÔNG GIÁO CỨU QUỐC
Từ đầu năm 1946, muốn kiểm soát và khống chế công giáo, Việt minh
đă cho thành lập nhóm "Công giáo Cứu quốc" đặt dưới quyền lănh đạo
của Mặt trận Liên Việt. Dĩ nhiên cha Bề trên không chấp nhận và đă
thẳng thắn trả lời: "Người Công giáo nào cũng có quyền tham gia hoạt
động chính trị nhưng chỉ với tư cách cá nhân người công dân".
Tại B́nh định, một Ban Chấp hành "Công giáo cứu quốc" tỉnh được
h́nh thành và ông Ái Mỹ Hà văn Đốc được Mặt trận Liên Việt cử ra làm
chủ tịch. Ông này cùng với một số thanh niên Công giáo "thời cơ" đă
t́m mọi cách để thành lập Công giáo Cứu quốc tại các huyện nhưng
không kết quả. Tại các tỉnh khác cũng vậy. Tuân lệnh Bề trên Địa
phận, các Cha xứ đă hướng dẫn khuyến khích giáo dân tuyệt đối vâng
lời giáo quyền. Việt minh tổ chức nhiều cuộc họp cấp tỉnh và huyện,
mời các linh mục Chính xứ và các nhân sĩ công giáo tham gia nhưng
vẫn không đạt mục đích.
Một lần trong buổi họp cấp tỉnh gay cấn nhất tại Trung lương (Bồng
sơn) đă xảy ra cuộc tranh căi quyết liệt giữa hai bên Công giáo và
Liên Việt. Thầy Giuse Nguyễn Hữu Thạnh (cựu chủng sinh Làng sông-Qui
nhơn), đại diện thành phần trí thức công giáo huyện Hoài ân đă đưa
ra những lập luận cứng rắn bác bỏ tổ chức Công giáo Cứu quốc và đ̣i
giải tán ngay Ban Chấp hành Tỉnh bộ. V́ đó, 4 tháng sau, ông Thạnh
bị Việt minh bắt đi và kết án tử h́nh về tội "Việt gian phản quốc".
Công an Việt minh đă lén lút dẫn ông đến vùng rừng núi Phú hữu và đă
hạ sát ông.
Khi "Liên đoàn Công giáo Việt nam" được phép thành lập do ông
Nguyễn Mạnh Hà làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương và bản Điều lệ
Nội quy từ ngoài Bắc được phổ biến vào Nam, Bề trên Đặng Quyền Huy
đă chấp nhận cho h́nh thành ngay tổ chức này từ Tỉnh xuống các Giáo
xứ trong toàn Giáo phận. Linh mục Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch được mời
lănh chức Tuyên úy Liên đoàn Công giáo Địa phận. Chính quyền Việt
minh luôn ép buộc Liên đoàn Công giáo phải gia nhập Mặt trận Liên
Việt, nhưng theo cương lĩnh và Điều lệ-Nội quy đă được Chủ tịch
Chính phủ chuẩn phê th́ tổ chức này được phép hoạt động trên và
ngoài các đảng phái chính trị, v́ vậy mà trong suốt 7 năm luôn có sự
giằng co nhập hay không nhập giữa Công giáo và Mặt trận Liên Việt.
Việt minh t́m đủ mọi cách cũng không thể áp đặt, khống chế hàng ngũ
công giáo, cuối cùng họ phải dùng thủ đoạn tổ chức một số "giáo gian"
tại các giáo xứ để theo dơi, báo cáo về những hoạt động và sinh hoạt
của Liên đoàn Công giáo.
CHÍNH SÁCH TIÊU THỔ KHÁNG CHIẾN
Khi lệnh Toàn quốc Kháng chiến được ban ra, thị xă Qui nhơn được
đặt trong t́nh trạng tản cư và tiêu thổ. Dân chúng lương, giáo đều
bị bắt buộc rời khỏi thành phố tản cư về các làng mạc vùng nông thôn.
Tất cả lâu đài, dinh thự, phố xá, nhà cửa đều có lệnh phải triệt phá.
Từng đoàn dân công phá hoại được cưỡng bách thành lập ở nông thôn
ban đêm kéo về thị xă đập nát san bằng. Viễn ảnh các các cơ sở Công
giáo sẽ cùng chung số phận khiến nhiều tín hữu tỏ ra công phẫn,
quyết định kéo nhau về Qui nhơn để bảo vệ Nhà thờ Chính toà và Toà
giám mục.
Để trấn an giáo dân và để giữ hoà khí giữa Công giáo và Việt minh,
nhất là để tránh những sự xô xát có thể xảy ra do một số thanh niên
công giáo quá khích và sự trà trộn xúi dục phá hoại của Cộng sản,
một phái đoàn thương thuyết được thành lập. Phái đoàn gồm có: cha Bề
trên Đặng Quyền Huy, hai linh mục Nguyễn Chánh (Quản lư Địa phận),
Lê văn Ly (cha sở Nhà đá) và Cha già Th́n ( cha sở Nước Nhĩ). Phái
đoàn trực tiếp thỉnh cầu Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh, nhưng
có khi may mắn được gặp, có khi phải chờ đợi đôi ba ngày và lúc th́
gặp chủ tịch, lúc th́ phó chủ tịch, có khi là Tổng thơ kư hoặc một
Ủy viên nào đó... nhưng tất cả câu trả lời chiû là xă giao rập khuôn:
"Chúng tôi Hành chánh và Quân đội chưa được nhất trí, sẽ bàn thảo
lại và trả lời sau..." Ba tháng nhọc công đi lại không kết quả, phái
đoàn phải trực tiếp đến Liên Khu V để xin can thiệp. Thế rồi Liên
Khu chờ ư kiến tỉnh, tỉnh chờ lệnh Liên khu.
Sau 6 tháng kiên tŕ chạy xuôi chạy ngược, cuối cùng Liên khu V
chấp thuận và quyết định không đập phá các cơ sở Công giáo tại Qui
nhơn, nhưng khi lệnh đến nơi th́ trường ḍng Gagelin của các sư
huynh La san, cơ sở các Bà ḍng Thánh Phaolồ, nhà in, nhà quản lư đă
thành b́nh địa, chỉ c̣n lại Nhà thờ Chính Toà, Ṭa Giám mục và Đại
Chủng viện th́ mái ngói bị giở, các vách ngăn đă bị đập phủng, cửa
lớn cửa sổ,đèn quạt và đồ đạc bên trong đều bị tháo gỡ khiêng đi,
thậm chí gạch bông lót nền cũng bị cạy xới... Dù không tiếp tục
triệt phá 3 cơ sở trên nhưng ban Du kích Thị xă cũng đă cho gài ḿn
sẵn, hễ quân Pháp đổ bộ lên Qui nhơn là cho giật sập ngay.
CÁC LINH MỤC Ở QUẢNG NAM BỊ TẬP TRUNG
Khi quân Pháp đổ bộ lên Đà nẵng rồi tiến chiếm về hướng Tây bao
gồm 2 giáo xứ An Ngăi và Phú thượng, đồng thời tiến chiếm về hướng
Nam có 2 giáo xứ Trà kiệu và Hội an th́ các linh mục chính xứ tại
Quảng nam vùng Việt minh kiểm soát đều bị đưa đi tập trung tại Nhà
thờ Tứ chánh, vùng rừng núi Tiên lănh, huyện Tiên phước, ngoại trừ
cha già Vận, cha sở Tam kỳ và cha già Chánh, cha sở Tiên Đỏa. Cha Bề
trên Địa phận lại phải lao tâm mệt sức t́m cách thương lượng với nhà
cầm quyền tỉnh Quảng nam xin cho các linh mục trở về địa sở cũ. Sau
gần 2 năm đi lại khổ nhọc với phương tiện di chuyển lúc bấy giờ là
chiếc xe đạp cũ kỹ, lại không dám đi ban ngày, sợ máy bay Pháp oanh
kích, nhất là rủi một cơ sở nào bị oanh tạc mà có mặt ḿnh gần đó sẽ
bị chụp mũ "điềm chỉ viên cho Pháp" là có thể bị toi mạng, nên phải
đi trong đêm. Từ B́nh định ra Quảng nam đường xa trên 200 cây số,
quốc lộ 1 bị đào phá và cất đứt từng đoạn, cầu cống bị giật sập,
sông nào sâu có đ̣ du kích đưa qua, nơi nào cạn không đ̣ phải vác xe
lội. Cuối cùng Liên Khu V mới chấp nhận trả tự do cho các linh mục
Bùi Đức, Bùi Bá, Huỳnh Như, Trần Anh Tước, Hoàng Liên Mầu, Nguyễn
Đức Tuấn, Bonaventura An...
VỤ ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRẦN CỪ
Trần Cừ là một thân hào nhân sĩ ở Mộ đức, tỉnh Quảng ngăi, từng
tham gia cách mạng ở chiến khu Ba tơ. Khi Việt minh nổi dậy thành
công, nhóm Cách mạng Ba tơ tràn về tiếp thu tỉnh Quảng ngăi và đổi
tên thành tỉnh Lê Trung Đ́nh. V́ bất đồng quan điểm, Trần Cừ bị phe
đối lập loại ra khỏi công đầu và và quyền lănh đạo tại địa phương.
Sau vụ Tạ Thu Thâu cùng phe nhóm thuộc Đệ tứ Quốc tế Công sản bị bắt
và bị kết án tử h́nh về tội phản cách mạng, Trần Cừ cũng bị ghép vào
thành phần phản động.
Bị truy nă và lùng bắt ráo riết, Trần Cừ lẻn trốn trong khu Thánh
đường giáo xứ Bầu Gốc lúc bấy giờ do linh mục Trịnh Hoài Ân làm
chánh xứ. V́ có người điềm chỉ, công an xông vào lùng kiếm khắp khu
nhà thờ và nhà xứ. Bị tra vấn, cha Trinh Hoài Ân can đảm trả lời: "Như
các ông đă lục lạo t́m kiếm và thấy rơ rồi đó! Nhà xứ chỉ có ḿnh
tôi và chú bé giúp việc này, ngoài ra không c̣n ai nữa. C̣n nhà thờ
là nơi công cọng, giáo dân thường xuyên ra vào đi lễ, cầu kinh hằng
ngày, làm sao tôi có thể kiểm soát hay ngăn cản được!"
Sau đó Trần Cừ bị bắt tại một làng nhỏ phía Tây Bầu Gốc, cha
Trịnh Hoài Ân cùng một số chức sắc công giáo như thầy Ngọc, Hương bộ
Cúc, Đại hào Khâm, xă Kính, Nguyễn Đức Dung... cũng bị công an bắt
giữ. Sau một thời gian bị giam cầm tra hỏi, các ông này được thả về,
c̣n Trần Cừ bị xử bắn. Riêng cha Trịnh Hoài Ân bị Toà án Nhân dân
huyện Mộ đức ghép vào tội dung túng bao che tử tội, phải lănh án tử
h́nh để dĩ giới nhưng do sự vận động của khối công giáo nên toà án
Nhân dân tỉnh đổi lại thành án tù chung thân và khi đưa lên Toà án
Nhân dân Liên khu V th́ được giảm xuống c̣n 20 năm tù ở.
Trong một phiên toà đặc biệt tại Quảng ngăi để tái thẩm vụ án
theo yêu cầu, có Phạm Văn Đồng (lúc bấy giờ c̣n là Công cán Ủy viên
Chính phủ tại Miền Nam) tham dự, Cha Nguyễn Đ́nh Tịch, Tuyên úy Liên
đoàn công giáo Liên Khu V tháp tùng Phạm văn Đồng và cha Bề trên Huy
được mời dự thính để nghe cha Trịnh Hoài Ân tự biện hộ. Cuộc đối đáp
giữa Ủy viên Công tố toà án Nhân dân tỉnh Quảng ngăi và cha Ân kéo
dài từ 7 giờ tối tới gần 2 giờ sáng mới chấm dứt. Cuối cùng khi nghị
án, bản án giảm c̣n 15 năm tù ở. Cha Trịnh Hoài Ân ở tù tại nhà lao
An ba, huyện Tư nghĩa nhưng 5 năm sau th́ được Trung ương giảm án và
trả tự do.
CHÍNH SÁCH TIÊU DIỆT TÔN GIÁO
Sau khi Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông dương và
thay vào Đảng Lao động Việt nam để che mắt quốc tế, chính quyền Việt
minh lại càng công khai đàn áp, tiêu diệt những đảng phái chính trị
khác. Riêng công giáo mặc dù bị coi là thuốc phiện mê hoặc dân chúng
và là kẻ thù không đội trời chung nhưng họ chưa có thể thẳng tay
bách hại... Bề ngoài họ ve văn nhưng bên trong dùng nhiều thủ đoạn
để hạn chế dần sinh hoạt tôn giáo. Những nghi lễ tôn giáo chỉ được
cử hành trong nhà thờ c̣n mọi h́nh thức tổ chức bên ngoài đều bị cấm.
Giáo dân chỉ được tụ họp xem lễ vào ngày Chủ nhật, các ngày khác
trong tuần muốn làm lễ phải xin phép chính quyền địa phương. Các tổ
chức hội họp khác cũng phải xin phép.
V́ ban ngày thường bị máy bay Pháp oanh kích nên mọi sinh hoạt
của dân chúng đều phải tổ chức ban đêm. Do vậy thánh lễ chủ nhật
cũng phải cử hành vào lúc trời chưa sáng. Giáo dân ở xa phải đi từ
nửa đêm để đến nhà thờ xem lễ. Do chính sách "tiết kiệm để đánh giặc",
người dân chỉ được mặc quần đùi áo cánh để tiết kiệm vải, nên giáo
dân phải gói gọn quần áo dài cầm theo đến nhà thờ mới dám mặc vào,
xem lễ xong lại cởi ra gói lại mang về.
Với quy chế "người dân có quyền tự do tín ngưỡng và tự do không
tín ngưỡng" Việt minh đă ngăn cấm các lớp giảng dạy Giáo lư, Phúc âm.
Chuông nhà thờ cấm gióng giờ báo lễ, cấm điểm giờ Truyền tin để tôn
trọng sự yên tịnh của người khác...
Kể từ năm 1947, chính sách thuế Nông nghiệp được ban hành. Giáo
phận (thường gọi Nhà Chung) và các giáo xứ đều có ruộng đất, lâu nay
chỉ cho phát canh nên bị ghép vào thành phần địa chủ và thuộc nông
hộ độc lập nên phải đóng thuế nông nghiệp ở mức cao ấn định là 45%
lợi tức thu hoạch. Nh́n vào lư thuyết th́ ruộng phát canh lợi tức
chia đôi, người chủ ruộng nhận được 50%, nều đóng thuế 45% vẫn c̣n
5% để dùng. Nhưng trên thực tế, sản lượng thu hoạch của mỗi thửa
ruộng không căn cứ trên số thu hoạch cụ thể mà do Ban Nông hội b́nh
nghị và ấn định thường niên cho nên có khi cao gấp đôi số lượng thực
sự thu hoạch. V́ vậy mỗi kỳ thu lúa vào gom góp tất cả cũng chỉ mới
nạp được phân nửa số thuế ấn định phải nạp.
Mỗi năm có hai vụ lúa là hai lần nạp thuế. Mỗi mùa thuế thu làm
ba đợt: tạm thu, tiếp thu và thanh thu. Nông hộ nào đợt tạm thu chưa
đóng đủ số lúa thuế th́ qua đợt tiếp thu phải bán dụng cụ, đồ vật
trong nhà để đóng cho đủ. Nếu c̣n thiếu, đến đợt thanh thu bắt buộc
phải thanh toán cho xong. Không nạp đủ thuế, hộ chủ bị chính quyền
đ̣i lên đ̣i xuống, doạ nạt đủ điều, buộc phải viết giấy hẹn thanh
toán. Nông hộ c̣n tổ chức những buổi họp nhân dân ở ngoài trời, mang
các hộ chủ chưa trả đủ thuế ra để xỉ vả, nhục mạ, ném đá, khạc nhổ
vào mặt... và bắt hứa trước dân kỳ hẹn thanh toán. Nhiều cha xứ bị
Nông hội xúi dân làm nhục đă phải chịu nhục nhă trong khổ cảnh này,
trong số đó có thầy Huỳnh Đông Các (nay là đương kim Giám mục Giáo
phận) lúc đó c̣n là quản lư Nhà Chung G̣ thị và cha già Tới.
Cũng có giáo hữu lănh canh cảm thông hoàn cảnh, chỉ nhận một phần
ba lợi tức thu hoạch nhưng cũng không làm sao giúp giải quyết được
viếc thanh toán đủ thuế. Chẳng những chủ ruộng mà cũng có cả những
người lănh ruộng làm không cũng không thể nào kiếm đủ lúa đóng thuế
nông nghiệp cho nên phải trả ruộng lại cho hộ chủ. Ruộng không người
canh tác liền bị Nhà nước tịch thu gọi là để cấp phát cho bần cố
nông.
Bị triệt hạ bằng kinh tế, Chủng viện phải tự đóng cửa, những công
tác bác ái từ thiện cũng phải tạm ngưng. Nam nũ tu sĩ phải ra đồng
canh tác hay làm một nghề thủ công để sống qua ngày. Các cha xứ cũng
phải trồng rau, khoai quanh vườn nhà thờ để ăn độn độ nhật.
Kể từ khi Đại và Tiểu Chủng viện đóng cửa, tiểu chủng sinh trở về
với gia đ́nh c̣n các thầy, nhất là từ chức "cắt tóc" (Thần học năm
thứ nhất) trở lên được Bề trên địa phận phân phối đến giúp các giáo
xứ. Thầy nào không muốn có thể về nhà chờ đợi. Thời gian này nhờ có
sự giúp đỡ của giáo dân, đă có thầy trốn thoát được vào Nha trang và
được Đức cha Piquet nhận cho tiếp tục học đến chức linh mục.
Cuối năm 1949, những cuộc lén lút vượt tuyến trở thành phổ biến
trong hàng ngũ chủng sinh. Nhiều thầy nhiều Chú trốn thoát được vào
Nha trang hoặc ra Đà nẵng, người th́ được Đức Giám mục chấp thuận
vào chủng viện, kẻ lại xin gia nhập các ḍng như ḍng Chúa Cứu thế,
Đa minh, Thiên an... cũng có kẻ chấm dứt con đường tu hành để xin
gia nhập vào Quân đội hay Hành chánh của phe Quốc gia. Sau đó, nhiều
cuộc vượt tuyến khác được tổ chức mà thành phần ra đi phần đông là
trí thức, thanh niên và nhất là học sinh công giáp cũng như không
công giáo. Lúc đó nhờ Việt minh chưa có lực lượng kiểm soát vùng ven
biển nên các ghe thuyền đánh cá cũng dễ dàng đưa người trốn đi. Tuy
nhiên cũng có những người mạo hiểm băng rừng vượt suối vào được Nha
trang hoặc men theo đường xe lửa để ra đến Trà kiệu là vùng Pháp
kiểm soát.
VỤ "GIÁN ĐIỆP B̀NH ĐỊNH"
Cho đến đầu năm 1950 Việt minh mới khám phá ra phong trào vượt
tuyến. Trong nhóm bị bắt đầu tiên tại cửa biển Cách thử có vài thanh
niên công giáo nên linh mục Ngô Công Lành chính xứ Xóm Chuối bị Công
an bắt để tra hỏi. Chính quyền Việt minh bắt đầu cảnh giác nên nhiều
vụ vượt tuyến kế tiếp bị phát giác.
Sau nhiều cuộc điều tra xét hỏi, Việt minh biết được đă có một số
đông trí thức, thanh niên, học sinh đa số là công giáo đă trốn thoát
về thành. Để đàn áp phong trào này và khủng bố tinh thần khối Công
giáo, họ đă lần lượt cho bắt hết những người liên can hay bị t́nh
nghi có liên can đến những hoạt động chống đối lại chế độ và thẳng
tay thanh trừng.
Tại B́nh định một số đông linh mục bị bắt như các cha Trịnh Hoài
Ân, Nguyễn Đ́nh Tịch, Nguyễn Bính (cha xứ Tân dinh), Nguyễn văn Tới
(cha xứ G̣ thị), Nguyễn Bảo (cha xứ Lạc điền), Nguyễn Suất (cha xứ
Kim châu), Nguyễn Kỳ Hội (cha xứ Xóm Chuối vừa được cử đến thay cha
Lành bị bắt trước đó), Huỳnh Biên (Qui hoà), Vơ Ngọc Nhă (Chủng viện),
Trần Anh Tước (cha xứ Gia chiểu)... Một số Thầy già cũng bị bắt như
Thầy Vang ở G̣ thị, thầy Y ở Thạnh ḥa, thầy Quá ở Kim châu, thầy
Như ở Nhà đá.
Về thành phần nhân sĩ trí thức gồm có các ông: Đoàn Đức Thoan,
Nguyễn Hữu Lộc, Vơ Minh Vinh, Đặng Hiếu An, Đoàn Thế Khuyến, Đặng
Hiếu Khẩn, Đoàn Thế Nhơn, Vơ Thu Tịnh, Đào Trữ, Nguyễn Bá Tín,
Nguyễn Bá Lư, Trần Tài, Trần Lộc ... Riêng cụ Tạ Chương Phùng cũng
bị Công an lùng bắt nhưng đă may mắn trốn thoát được vào vùng Quốc
gia. Ngoài ra c̣n một số đông thanh niên công giáo và không công
giáo cũng bị bắt theo. Tính đến năm 1951, số người bị bắt lên đến
hai ngàn.
Tại ba tỉnh Quảng nam, Quảng ngăi và Phú yên cũng có một số người
bị bắt như Phạm đ́nh Nghị, giáo sư trường Trung học Lê Khiết v́ bị
t́nh nghi có liên can. Linh mục Tô Đ́nh Sơn (cha sở Trung tín) được
Ủy ban Hành kháng Liên Khu V mời về nói là để tham dự phiên họp
nhưng khi vừa tới Sa huỳnh th́ liền bị Công an đón đường bắt dẫn đi.
Việt minh cho dựng lại vụ này và gán cho cái tên là Vụ Gián điệp
để lập bản cáo trạng kết tội những người chống đối họ là phản quốc
làm tay sai cho Pháp và đem ra toà xét xử. Họ bắt từng nhóm diễn lại
cảnh vượt tuyến tại một số địa điểm, tạo dựng các buổi hội họp tổ
chức, những cuộc săn đuổi lùng bắt của Công an để chụp ảnh triển lăm
cho công chúng xem về cái mà họ gọi là tội ác với nhân dân.
Cuối năm 1951 một phiên toà Quân sự đặc biệt của Liên Khu V được
mở ra để xét xử. Phạm Phú Tiết, một cựu thần triều Nguyễn, nguyên là
Tổng đốc B́nh định trước ngày Việt minh cướp chính quyền, được chỉ
định ngồi ghế Chánh án. Công tố viên là Huỳnh Lắm ủy viên Công an
Liên Khu V. Về phía Phụ thẩm Nhân dân là một số người thuộc thành
phần bần cố nông cuồng tín theo cộng sản.
Phiên toà kéo dài trong 15 đêm để nghe Công tố viên đọc cáo trạng
và đưa đến phán quyết cuối cùng là 4 án tử h́nh gồm các ông: Đoàn
Đức Thoan, cựu Tri huyện Phù cát, Nguyễn Hữu Lộc, giáo sư, Vơ Minh
Vinh, chức sắc Cao đài và Tạ Chương Phùng, nhân sĩ (xử khuyết tịch).
Tất cả những người này bị ghép vào tội phản quốc v́ thuộc thành phần
chính phủ Việt gian. Tám án tù chung thân v́ bị ghép vào tội tham
gia Ủy ban tổ chức và Ủy ban Kinh tài cho Chính phủ Việt gian nói
trên được dành cho linh mục Trịnh Hoài Ân, linh mục Nguyễn Đ́nh Tịch
và các ông Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Lư, Đoàn Thế Khuyến, Đặng Hiếu
An, Đào Trữ, Đoàn Thế Nhơn ( tức nhà văn Vơ Phiến) . Gần hai trăm
người khác lănh án tù từ 5 đến 20 năm tù ở. Số c̣n lại gần 2000
người được tha nhưng phải bị quản chế thời hạn tại địa phương.
Vụ "Gián điệp B́nh Định" chính là một đ̣n tối hậu Việt minh dùng
để triệt hạ tôn giáo và các thành phần chống đối ở Liên Khu V bằng
cách chụp cho những người này cái mũ Việt gian phản động làm tay sai
cho thực dân Pháp để đánh lạc dư luận, đổ hết tội lên nhóm người này
đă gây nên cảnh đói khổ cùng cực của nhân dân, và từ đó có thể rảnh
tay vận động dân chúng thực hiện mọi chủ trương của Đảng trong mưu
đồ xích hoá dân tộc.
Nguyễn Công Luận
(Hiệu đính bài đă đăng trong Đặc san HOA T̀NH THƯƠNG của Hội Thân
Hữu Địa Phận Qui Nhơn Hải Ngoại phát hành tháng 7-1995)
|
|