
Lược
sử Giáo xứ Chính Ṭa Quy Nhơn
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn ( 07/12/2017 )
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Phần đất giáo xứ Chính Ṭa Qui Nhơn ngày nay nằm trong thành phố
Qui Nhơn: gồm các phường Trần Hưng Đạo, Thị Nại, Hải Cảng, Lê Lợi,
xă đảo Nhơn Châu và thôn Hải Minh, Hải Giang xă Nhơn Hải.
Nhà thờ Chính Ṭa tọa lạc tại 122 đường Trần Hưng Đạo, phường Hải
Cảng, thành phố Qui Nhơn.


II. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TR̀NH THÀNH LẬP
1. TÊN GỌI QUI NHƠN
Trong tiến tŕnh mở cơi về phương Nam, năm 1470, vua Lê Thánh
Tông sáp nhập phần đất vừa mới chiếm được của Chiêm Thành vào đạo
Quảng Nam, đặt tên là phủ Hoài Nhơn gồm ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và
Tuy Viễn. Phủ lỵ được đặt tại thành Đồ Bàn, thuộc thôn Bá Canh,
phường Đập Đá, thị xă An Nhơn ngày nay.
Năm 1602 (Nhâm Dần), chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn
lấy tên phủ Qui Nhơn, đặt chức quan Tuần Phủ Khám Lư coi sóc.
Năm 1651 (Tân Măo), chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đổi tên phủ Qui
Nhơn lấy tên phủ Qui Ninh.
Năm 1742 (Nhâm Tuất), chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên phủ Qui
Nhơn và dời phủ thành Qui Nhơn về phía Bắc thành Đồ Bàn, địa điểm
nầy thuộc thôn Châu Thành, phường Nhơn Thành, thị xă An Nhơn ngày
nay.
Năm 1773 (Quư Tỵ), Nguyễn Nhạc xưng vương, mở rộng thành Đồ Bàn
làm Hoàng Đế Thành.
Năm 1797 (Đinh Tỵ), sau khi thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lấy tên
B́nh Định thay cho tên phủ Qui Nhơn, Hoàng Đế thành đổi tên là B́nh
Định thành, tên gọi B́nh Định xuất phát từ đây. Sau khi thống nhất
lănh thổ, năm 1802, Nguyễn Ánh xưng vương lấy hiệu Gia Long, đặt
chức Qui Nhơn Án Trấn. Năm 1808, B́nh Định Dinh được đổi thành B́nh
Định Trấn. Năm 1814, B́nh Định thành bị phế bỏ, lập Dinh B́nh Định
tại địa điểm mới thuộc thôn An Ngăi và Kim Châu, trung tâm phường
B́nh Định, thị xă An Nhơn ngày nay. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi B́nh
Định Trấn thành B́nh Định Tỉnh. [1]
Trên đà B́nh Định phát triển ở giai đoạn tiền bán thế kỷ 19, một
phố thị được h́nh thành bên bờ đầm Thị Nại. Hiện nay Bảo Tàng Tổng
Hợp B́nh Định đang lưu giữ tấm bia bằng gỗ ghi công đức của 141 đơn
vị và cá nhân cúng dường xây dựng miếu Quan Thánh đế quân, ngày nay
gọi là chùa Ông Nhiêu, 251 Bạch Đằng, Qui Nhơn. Tấm bia được mở đầu
như sau: “Nước Đại Nam, Thái tử Thiếu bảo Hiệp biện Đại học sĩ lănh
binh B́nh - Phú Tổng đốc họ Vơ, cùng Phố trưởng Trần Đức Hiệp, Cai
trưởng Ngô Văn Phóng ở ấp Chánh Lộc, thôn Vĩnh Khánh, tổng Tuy Hà,
huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn thành tâm ăn chay niệm Phật để xây miếu
Quan Thánh đế quân. Ngày mồng một tháng ba năm Đinh Dậu (1837) bắt
đầu khởi công xây dựng…”.[2] Số tiền cúng dường của 141 đơn vị, cá
nhân được ghi trên bia tổng cộng là 415 quan. Trong số 141 đơn vị,
cá nhân cúng dường có 91,5% là thuyền hộ và 8,5% là các quan chức
triều đ́nh và hiệu buôn. Trong số 91,5% thuyền hộ cúng dường có 8%
là người Hoa, phần lớn là người Việt.
Những chứng từ trên cho thấy vùng đất sau nầy có tên gọi thành
phố Qui Nhơn là một vùng đất từ thời điểm năm 1837 đă có phố thị, có
thương thuyền, có hiệu buôn, có cơ chế hành chánh nhưng tên gọi của
đơn vị hành chánh vẫn là thôn Vĩnh Khánh. Sự thuận lợi của vùng đất
cảng nầy đă thu hút các thương nhân, ngư dân và nhiều người thuộc
nhiều thành phần khác nhau đến định cư. Do việc phát triển dân số
cùng với nhu cầu mở rộng địa cư tại vùng đất nầy, hai làng Chánh
Thành và Cẩm Thượng được thành lập từ thôn Vĩnh Khánh, tổng Tuy Hà,
huyện Tuy Phước. Hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng là cơ sở để Cơ
Mật Viện của Triều đ́nh Huế có văn bản đề nghị thành lập thị xă Qui
Nhơn vào ngày 20/10/1898.
Như thế có sự phân biệt phủ Qui Nhơn từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ
19 với thành phố Qui Nhơn ngày nay, cả hai có cùng một tên gọi Qui
Nhơn nhưng là hai đơn vị hành chánh với hai chỉ giới khác nhau và
được h́nh thành trong hai thời điểm khác nhau. Về sự xuất hiện tên
gọi Qui Nhơn của thành phố Qui Nhơn có nhiều ư kiến:
- Theo Quách Tấn: “…Đến khi đă dẹp yên phong trào Cần Vương, đặt
vững nền đô hộ lên đất nước Việt nam, Chánh Quyền Thực Dân dùng Thị
Nại làm lỵ sở và đổi tên là Qui Nhơn…”.[3]
- Theo Trần Đ́nh Thái: “Khoảng tháng 3 năm Đinh Hợi (1887), sau
khi dẹp xong phong trào Cần Vương, tại B́nh Định người Pháp thiết
lập lại cửa Thị Nại một thành phố gọi là Qui Nhơn”.[4]
Cách chung, theo hai ư kiến trên và đa số các ư kiến khác, tên
gọi Qui Nhơn của thành phố Qui Nhơn do người Pháp thiết đặt sau khi
phong trào Văn Thân Cần Vương bị tan ră. Tuy nhiên việc xác định năm
tháng ngày giờ xuất hiện tên gọi Qui Nhơn của thành phố Qui Nhơn có
nhiều ư kiến khác nhau:
Trong các bản báo cáo hằng năm của các Giám mục thừa sai gởi về
nhà MEP. Bản báo cáo năm 1879 của Đức cha Van Camelbeke có nói đến
“Ông Lănh sự Pháp ở Qui Nhơn – M. le Consul de France à Qui-Nhon”.[5]
Trong các Văn bản, Hiệp ước giữa Việt - Pháp và các văn bản của
Triều đ́nh Huế:
Điều 11 của Hiệp ước Giáp Tuất (1874), trong đó Triều đ́nh Huế
phải mở các cửa biển cho ngoại quốc vào buôn bán, tên gọi cửa Thị
Nại được dùng trong văn bản. Tên gọi cửa Qui Nhơn chưa có trong văn
bản nầy.
Trong thư của ông Vernéville, Lănh sự Pháp ở Qui Nhơn viết năm
1881, đă có tên gọi Qui Nhơn. [6]
Điều 7 của Hiệp ước Quư Mùi (25/8/1883), tên gọi cửa biển Qui
Nhơn được dùng trong văn bản.
Năm 1884, trong văn bản của Triều đ́nh Huế nói về việc người Pháp
chủ động thông thương các cửa biển từ Biên Ḥa đến Ninh B́nh,[7]
trong đó tên gọi cửa Thị Nại vẫn được dùng cho đến khi Cơ Mật Viện
của Triều đ́nh có văn bản đề nghị thành lập thị xă Qui Nhơn vào ngày
20/10/1898. Ngày 12/7/1899 vua Thành Thái kư chỉ dụ thành lập thị xă
Qui Nhơn. Ngày 14/3/1900 Toàn Quyền Đông Dương, Paul Doumer, kư Nghị
định qui định ranh giới thị xă Qui Nhơn khoảng 7km², gồm hai làng
Chánh Thành và Cẩm Thượng. Ngày 30/4/1930, Toàn quyền Đông Dương,
Pasquier, kư Nghị định thành lập thành phố Qui Nhơn. Với Nghị định
nầy, thành phố Qui Nhơn được chia làm năm khu phố: Khu 1 và khu 2 (làng
Chánh Thành), khu 3 và khu 4 (làng Cẩm Thượng), khu 5 (một phần đất
của làng Hưng Thạnh).[8]
Khu 6 hiện nay là một phần đất xưa của thôn Xuân Quang và thôn
Xuân Vân.[9] Thôn Xuân Quang và thôn Xuân Vân của huyện Tuy Phước
được sáp nhập vào thị xă Qui Nhơn theo Nghị định số 594-BNV ngày
12/10/1961. Như thế, Khu 6 có thể được thành lập sau ngày
12/10/1961.
Từ những sử liệu trên đây, về phía người pháp, tên gọi Qui Nhơn
để chỉ phần đất tiền thân thành phố Qui Nhơn ngày nay đă xuất hiện
sau năm 1874 và trước năm 1881. Về phía Việt Nam, Qui Nhơn chính
thức là tên gọi của một đơn vị hành chánh (thị xă Qui Nhơn) được ghi
trong văn bản của triều đ́nh vào ngày 20/10/1898.
Theo ḍng lịch sử, địa giới thành phố Qui Nhơn đă nhiều lần đổi
thay. Mới nhất, theo Quyết định số 159/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 25/01/2010, thành phố Qui Nhơn là đô thị loại I trực thuộc
tỉnh B́nh Định. Thành phố Qui Nhơn có 16 phường: Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Lư Thường Kiệt, Nguyễn Văn Cừ, Đống Đa,
Thị Nại, Hải Cảng, Ngô Mây, Ghềnh Ráng, Quang Trung, Nhơn B́nh, Nhơn
Phú, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, và 5 xă: Nhơn Lư, Nhơn Hội, Nhơn
Châu, Nhơn Hải, Phước Mỹ.
Hiện nay trên địa hạt thành phố Qui Nhơn có 10 giáo xứ: Chính Ṭa
(Qui Nhơn), Qui Đức, Ḥa Ninh, Qui Hiệp, Ghềnh Ráng, Qui Ḥa, Đồng
Tiến, Xuân Quang, Ngọc Thạnh, Phú thạnh và giáo họ Đông Định của
giáo xứ Tân Dinh.
2. GIÁO XỨ QUI NHƠN
Năm 1885, phong trào Văn Thân hành động với chủ trương B́nh Tây
Sát Tả rất khắc nghiệt. Ngày 04/8/1885 Đức cha Van Camelbeke Hân,
truyền cho giáo dân phía bắc B́nh Định và các vùng lân cận Làng Sông
phải di cư đến cửa Thị Nại để tránh Văn Thân bách hại. Giáo dân từ
các họ đạo Nước Nhỉ, Nhà Đá, Đại An, Kiều Đông, G̣ Thị, Nam B́nh,
Tân Dinh đă vội trốn về đây tị nạn. Phong trào Văn Thân vừa chấm dứt,
năm 1887 phần lớn giáo dân hồi cư về quê cũ, một số ít người ở lại
sinh sống tại làng chài cửa Thị Nại.
Năm 1876 Vua Tự Đức cho phép Pháp lập lănh sự quán tại Thị Nại
sau khi cấp cho Pháp 2,5 ha làm đất nhượng địa.[10] Từ đó, quân đội
và các cơ quan chính phủ bảo hộ dần dần trấn đóng trên phần đất nầy.
Năm 1892, Ṭa Công sứ Pháp được xây dựng tại vị trí hiện nay là
khách sạn Quy Nhơn, 08 Nguyễn Huệ.
Từ khi người Pháp đặt Ṭa Công sứ và khai thác cửa biển Qui Nhơn,
cảng Qui Nhơn trở thành một cảng quan trọng trong vùng bờ biển giữa
Sài G̣n và Đà Nẵng. Qui Nhơn dần dần trở nên một đô thị sầm uất, nhà
cửa ở đây được xây dựng theo kiểu Tây phương. Cư dân Qui Nhơn có
người Việt, người Hoa, người Pháp và một ít thương nhân Ấn Độ. Một
số người Việt và người Pháp Công giáo làm thành giáo họ Qui Nhơn,
thuộc giáo xứ Làng Sông. [11]
Trong xu thế phát triển ở Qui Nhơn, Đức cha Grangeon Mẫn đă trưng
một khu đất có chỉ giới ngày nay là đường Trần B́nh Trọng (Đông),
đường Hàn Thuyên (Tây), đường Trần Hưng Đạo (Nam), đường Bạch Đằng (Bắc).
Năm 1903, chính quyền đă cấp trích lục khu đất nầy do cha Louis
Célestin Vallet Ngân đứng tên. Trên khu đất nầy, cơ sở nhà chung
được thiết lập đầu tiên là nhà Quản lư. Lúc bấy giờ cha Louis
Célestin Vallet, quản lư Nhà chung từ Làng Sông về Qui Nhơn để nhận
hàng và gởi thư. Trong lúc đó ở Qui Nhơn đă có một số giáo hữu Việt
và Pháp nên cha Vallet dựng ngôi nhà thờ tạm nhằm đáp ứng nhu cầu
mục vụ cho họ. Nhà thờ nầy lúc bấy giờ tọa lạc trong khuôn viên Ṭa
Giám Mục ngày nay.
Năm 1905, Qui Nhơn được thành lập giáo xứ với số giáo dân là 294
người, trong đó khoảng 50 người Châu Âu. Cha Louis Célestin Vallet
được bổ nhiệm làm chính xứ đầu tiên. [12]
III. CÁC CHA SỞ VÀ CHA PHÓ
01. Cha Louis Célestin Vallet Ngân (1905-1908)
Trong thời gian cha Vallet làm chính xứ Qui Nhơn, cha đă lập giáo
họ Xóm Cát, tức Qui Hoà ngày nay.
02. Cha Paul Emile Mathey (1908-1911)
Cha phó : Marie Félix Bérard (1911)
03. Cha Guillaume David Yên (1911-1912)
04. Cha Henri Bonhomme Toại (1912-1914)
05. Cha Jules Joseph Saulot Lượng (1914-1917)
06. Cha Tôma Thiềng (1917-1923)
Cha Tôma Thiềng đặc trách tín hữu Việt Nam. Các tín hữu ngoại
quốc do cha Quản lư Nhà chung làm tuyên úy. Lúc bấy giờ (1918-1920),
khu dân cư làng chài thuộc khu 2 ở cuối đường Trần Phú ngày nay bị
giải tỏa để chỉnh trang thị xă, trong đó có một số gia đ́nh công
giáo, lần lượt họ đến ở tại vùng đất ngày nay là công viên ṿng
xuyến ngă năm đường Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Ỷ Lan, rồi dời đi
lần nữa và định cư tại G̣ Rộng. Để đáp ứng nhu cầu đạo đức của giáo
dân ở đây, cha Tôma Thiềng đến giúp mục vụ và ban các bí tích. Trong
bối cảnh đó, một nhà nguyện mái tranh vách đất được h́nh thành tại
G̣ Rộng và giáo họ G̣ Rộng thuộc giáo xứ Qui Nhơn được khai sinh vào
thời cha Pierre Sanctuaire Khánh làm cha sở Qui Nhơn (1929-1932).
Thời gian cha Tôma Thiềng đặc trách chăm sóc mục vụ tín hữu Việt
Nam tại Qui Nhơn (1917-1923), giáo họ Hội Lộc, c̣n gọi là họ Đầm
được nhập về giáo xứ Qui Nhơn. Nguyên giáo họ Hội Lộc lúc mới thành
lập thuộc giáo xứ G̣ Thị thời cha Panis Ngăi, rồi thuộc giáo xứ Tân
Dinh thời cha F.X. Huỳnh Công Ẩn làm cha sở Tân Dinh (1904-1923).
07. Cha Antôn Huỳnh Ngọc Thạnh (1923-1929)
08. Cha Pierre Sanctuaire Khánh (1929-1932)
Cha phó : GB. Nguyễn Khắc Trung (1930-1932)
09. Cha Jules Vincent Labiausse Sáng (1932-1941)
Thời cha Labiausse Sáng làm cha sở, tại giáo xứ Qui Nhơn có nhiều
sự kiện đáng ghi nhớ : Trường Gagelin ở Kim Châu do các sư huynh
ḍng Lasan phụ trách, dời về Qui Nhơn năm 1932. Năm 1933, băo lớn
làm sập nhà thờ G̣ Rộng, Cha Labiausse Sáng dựng lại. Cũng trong năm
1933, Đại Chủng Viện Đại An dời về Đại Chủng Viện Qui Nhơn.[13] Đại
Chủng Viện Qui Nhơn được Đức cha Tardieu Phú cho khởi công xây dựng
từ năm 1930. Năm 1935, nhà in Làng Sông dời về Qui Nhơn. Ṭa Giám
mục Qui Nhơn được Đức cha Tardieu Phú xây dựng và khánh thành vào
đầu năm 1936. Cũng trong năm nầy, cha Labiausse lập giáo họ Qui Hải,
các nữ tu Bác Ái Vinh Sơn đến mở trường tiểu học và Cô nhi viện tại
Qui Nhơn. Đặc biệt, nhà thờ Chính Ṭa cũng là nhà thờ của giáo xứ,
rất khang trang, bề thế nhất trong vùng, được khánh thành vào ngày
10/12/1939. Như thế, lúc bấy giờ trên địa bàn giáo xứ Qui Nhơn có
nhiều cơ sở công giáo quan trọng. [14]
Các cha phó :
* Cha GB. Nguyễn Khắc Trung 1932-1937
* Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn 1937-1939
* Cha Giacôbê Nguyễn Đ́nh Thuận 1939-1941
10. Cha Pierre Sanctuaire Khánh (lần 2) (1941-1945)
Chiều ngày 09/3/1945, Nhật lật đổ Pháp, chiếm chính quyền ở Qui
Nhơn. Các thừa sai Pháp tại các nhiệm sở được sự giám sát chặt chẽ
của người Nhật một ít lâu, sau đó các thừa sai được lệnh của Nhật
tập trung về Ṭa Giám Mục Qui Nhơn. Lúc bấy giờ Đức cha Piquet không
thể trực tiếp điều hành giáo phận, ngài bổ nhiệm cha Phêrô Đặng
Quyền Huy làm Đại Diện Thừa Ủy, thay mặt Đức cha điều hành giáo phận.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố đầu hàng phe Đồng minh. Lợi
dụng t́nh thế, Mặt Trận Việt Minh khởi nghĩa chiếm chính quyền.
Được lệnh chính quyền đương thời, ngày 21/11/1945, Đức cha
Piquet, các thừa sai và các nữ tu ngoại quốc lên tàu lửa đi Huế.[15]
Các cha phó :
* Cha Giacôbê Nguyễn Đ́nh Thuận 1941-1943
* Cha Augustinô Nguyễn Thanh Long 1943-1944
* Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan 1945-1946
* Cha Antôn Hồ Ngọc Hạnh ở Ṭa Giám Mục, thỉnh thoảng đến giúp
mục vụ.
11. Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan (1945-1946)
Sau khi cha Pierre Sanctuaire Khánh cùng toàn bộ các thừa sai
phải rời khỏi vùng Việt Minh, cha Phaolô Đoan điều hành giáo xứ Qui
Nhơn cho đến đầu năm 1946,[16] cư dân Qui Nhơn phải thực hiện lệnh
tản cư lần thứ nhất của Mặt trận Việt Minh thị xă Qui Nhơn. Lúc bấy
giờ cha Phaolô Đoan di cư về giáo họ Mỹ Cang giáo xứ G̣ Thị, sau đó
cha về an dưỡng tại giáo họ Suối Nổ giáo xứ Nhà Đá và qua đời tại
Suối Nổ năm 1949.
Ngày 19/12/1946, lệnh Toàn quốc Kháng chiến được ban ra, sau đó
là lệnh tiêu thổ kháng chiến vào tháng 3/1947, một lần nữa, cư dân
thị xă Qui nhơn được đặt trong t́nh trạng tản cư và tiêu thổ. Đứng
trước t́nh trạng các cơ sở Công giáo sẽ bị tàn phá, nhất là để bảo
vệ Nhà thờ Chính toà và Toà giám mục, một phái đoàn thương thuyết
của giáo phận được thành lập. Phái đoàn gồm có: cha Bề trên Phêrô
Đặng Quyền Huy, cha Phaolô Trương Công Chánh (Quản lư Địa phận), cha
Giuse Lê văn Ly (cha sở Nhà Đá) và Cha Augustinô Nguyễn Cao Th́n
(cha sở Nước Nhỉ). Phái đoàn trực tiếp thỉnh cầu Ủy ban Kháng chiến
Hành chánh tỉnh; sau ba tháng đi lại không kết quả, phái đoàn phải
trực tiếp đến Ban Hành Chánh Liên Khu V để xin can thiệp. Cuối cùng
Lănh đạo Liên khu V chấp thuận và quyết định không đập phá các cơ sở
Công giáo tại Qui nhơn, nhưng khi lệnh đến nơi th́ trường Gagelin
của các sư huynh La san, cơ sở các nữ tu Bác Ái Vinh Sơn, nhà in,
nhà quản lư đă thành b́nh địa, chỉ c̣n lại Nhà thờ Chính Toà, Ṭa
Giám mục, Đại Chủng viện đă bị tháo gỡ mái ngói. Dù không tiếp tục
triệt phá 3 cơ sở trên, nhưng du kích thị xă đă cho gài ḿn sẵn, hễ
quân Pháp đổ bộ lên Qui nhơn là cho đánh sập các cơ sở nầy.[17]
Từ khi cha Phaolô Đoan rời khỏi giáo xứ cho đến năm 1955, giáo xứ
Qui Nhơn không có cha sở. Cha Phêrô Đặng Quyền Huy Đại diện thừa ủy,
điều hành giáo xứ (1950-1954); Ngày 23/11/1954, cha Phêrô Đặng Quyền
Huy qua đời.
12. Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch (1955-1964)
Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch đảm nhận nhiệm vụ Đại diện thừa ủy,
kiêm nhiệm giáo xứ Qui Nhơn thay cho cha Phêrô Đặng Quyền Huy đă qua
đời. Lúc bấy giờ cha Phêrô Tịch đang ở Làng Sông, cha cho thầy Giuse
Nguyễn Hữu Ngợi lo tu sửa nhà xứ Chính Ṭa[18] sau một thời gian dài
vườn không nhà trống v́ lệnh tiêu thổ kháng chiến. Cha Phêrô cho
thầy Phêrô Nguyễn Quang Báu đi thu gom bàn ghế, chặng đàng thánh giá
của nhà thờ trước đó được phân tán gởi ở nhà thờ Phổ Trạch, nhà thờ
G̣ Thị, Cô nhi G̣ Thị. Thầy Báu thu gom và chở bằng ghe từ G̣ Thị
theo đường Đầm thị Nại về Qui Nhơn. Công việc được hai thầy gấp rút
hoàn thành để kịp đón Đức cha Piquet từ Nha Trang về thăm Qui Nhơn.[19]
Thời cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch làm chính xứ Qui
Nhơn, cha tổ chức nhiều hoạt động Công giáo tiến hành. Lúc bấy giờ
tại giáo xứ có các hội đoàn như Hiệp Hội Thánh Mẫu, Legio Mariae,
Bác ái Vinh Sơn, Nữ đoàn bác ái. Vừa là cha sở Qui Nhơn, vừa là Giám
đốc Công giáo tiến hành của giáo phận, do đó nhân sự và các hoạt
động của Công giáo tiến hành được cha Phêrô điều hành hầu hết khởi
sự từ giáo xứ Qui Nhơn, như một đầu tàu. Cha Phêrô được sự cộng tác
năng động và tích cực của các cha phó và rất nhiều giáo dân như các
ông Nguyễn Như Quỳnh, Phạm Xuân Áng, Nguyễn Lụt, Nguyễn Trượng,
Nguyễn Đức Bạng, Bùi Tấn Ba, Huỳnh Nhuận, Huỳnh Kim Long, Nguyễn
Quang Hiển… Hoạt động Công giáo tiến hành đă đem lại kết quả rất tốt
đẹp, nhiều giáo họ được thành lập : Giáo họ Ḥa Ninh (1955), giáo họ
Vân Canh (1957), các giáo họ Hải Giang, Hải Minh, Nhơn Hải, Nhơn Lư,
Nhơn Châu [20] và Phú Huề (1958), giáo họ Ghềnh Ráng (1959), giáo họ
Xuân Quang (1960), giáo họ Khu Sáu và Đồng Tiến (1962), tái lập giáo
họ Qui Hải (1964).
Theo thông cáo của Ṭa Giám Mục Qui Nhơn đề ngày 01/6/1968: “…từ
ngày ra thông cáo này Họ Đạo Nhà Thờ Khu Sáu sẽ mang tên Qui Hiệp”.[21]
Ngày nay các giáo họ Ḥa Ninh, Ghềnh Ráng, Xuân Quang, Qui Hiệp,
Đồng Tiến đă được thành lập giáo xứ. Giáo họ Vân Canh thuộc giáo xứ
Ngọc Thạnh; Phú Huề thuộc Qui Đức ; Qui Hải được sáp nhập vào giáo
xứ Qui Hiệp.
Các cha phó:
* Cha FX. Nguyễn Quang Sách 1956
* Cha Giuse Lê Khắc Tâm 1956
* Cha GB. Đinh Đức Hậu 1959
* Cha Luy Cao Đức Thuận 1960-1962
* Cha GB. Nguyễn Văn Vàng CssR. 1960
* Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu 1960-1964
* Cha Đôminicô Bùi Phúc Dinh 1962-1964
* Cha Augustinô Nguyễn Văn Chế 1962-1963
13. Cha Giuse Nguyễn Sồ (1964-1970)
Cha Giuse Nguyễn Sồ đang làm quản lư giáo phận được Đức cha
Đôminicô Hoàng Văn Đoàn bổ nhiệm làm cha sở Qui Nhơn kiêm hạt trưởng
Qui Nhơn, quản lư giáo phận và giám đốc Caritas giáo phận. Lúc bấy
giờ cha Giuse Nguyễn Sồ vẫn ở tại Sở quản lư tại Ṭa Giám Mục cho
đến khi cha Giuse Phan Văn Hoa từ giáo xứ Đồng Tre về nhận nhiệm vụ
Quản lư giáo phận vào tháng 3 năm 1967, cha Giuse Nguyễn Sồ đến ở
nhà xứ Chính Ṭa.
Từ khoảng tháng 10 năm 1964, cha Giuse Nguyễn Sồ cáng đáng việc
tiếp cư, tạm cư và cứu trợ đồng bào tị nạn chiến tranh từ các giáo
xứ miền quê tấp nập kéo về Qui Nhơn. Cha cho thành lập các trại tạm
cư tại Khu I (nay thuộc giáo xứ Chính Ṭa), khu VI (nay thuộc giáo
xứ Qui Hiệp), Ghềnh Ráng, Xuân Quang, Qui Đức, Đồng Tiến. Các trại
tạm cư nầy có đông giáo dân, tạo nền cho việc thành lập các giáo xứ
Qui Hiệp, Đồng Tiến, Qui Đức, Xuân Quang, Ghềnh Ráng.
Các cha phó:
* Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu 1964-1968
* Cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên 1964-1966
* Cha Antôn Hoàng Tiến Nam 1966-1970
* Cha Giuse Phạm An Ninh 1968-1970
* Cha Luca Nguyễn Huy Kỳ 1968-1970
14. Cha Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan 1970-1973
Các cha phó:
* Cha Luca Nguyễn Huy Kỳ 1970-1974
* Cha Antôn Hoàng Tiến Nam 1970-1971
* Cha Giuse Phạm An Ninh 1970-1974
15. Cha Giuse Tô Đ́nh Sơn 1973-1975
Cha phó: Stêphanô Dương Thành Thăm 1974-1975
16. Đức Cha Giuse Phan Văn Hoa 1975-1986
Các cha phó:
* Cha Giuse Vơ Đ́nh Sen 1975-1986
* Cha Phaolô Lê Văn Nhơn 1975-1986
17. Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các 1986-1992
Các cha cộng tác:
* Cha Phêrô Nguyễn Soạn 1989-1992
* Cha Ignatiô Huỳnh Đắc Nh́ 1989-1992
Các cha phó:
* Cha Giuse Vơ Đ́nh Sen 1986-1989
* Cha Phaolô Lê Văn Nhơn 1986-1992
18. Cha TĐD Phêrô Nguyễn Soạn 1992-2000
Các cha phó:
* Cha Phaolô Trịnh Duy Ri 1992-1999
* Cha FX. Lữ Minh Điểm 1994-1995
* Cha Giuse Lê Kim Ánh 1995-2000
* Cha Phêrô Vơ Thanh Nhàn 1999-2000
19. Cha Anrê Huỳnh Thanh Khương 2000-2005
Các cha phó:
* Cha Giuse Lê Kim Ánh 2000-2000
* Cha Phêrô Vơ Thanh Nhàn 2000-2001
* Cha Gioakim Trần Minh Dũng 2001-2002
* Cha Gioakim Dương Minh Thanh 2001-2005
* Cha Giuse Nguyễn Bá Trung 2001-2005
* Cha Phêrô Vơ Hồng Sinh 2003-2005
20. Cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi 2005-2010
Các cha phó:
* Cha Gioakim Dương Minh Thanh 2005-2009
* Cha Giuse Nguyễn Bá Trung 2005-2008
* Cha Giuse Dương Quang Minh 2005-2006
* Cha Phaolô Vơ Đ́nh Hoài 2008- 2010
* Cha Gioakim Bùi Tấn Lộc 2009- 2010
21. Cha Giuse Lê Kim Ánh 2010- …..
Các cha phó:
* Cha Phaolô Vơ Đ́nh Hoài 2010 - 2013
* Cha Gioakim Bùi Tấn Lộc 2010 - 2011
* Cha Giuse Phan Thế Vinh 2011- 2016
* Cha Simon Nguyễn Thanh Tú 2013 - 2016
* Cha Simon Trần Văn Đức 2015 -
* Cha F.X. Nguyễn Văn Toàn 2016 - …..
IV. CƠ SỞ VẬT CHẤT:
1. Thời Đức cha Augustinô Tardieu Phú
Nhà Thờ Chính Toà
Trước khi Đức cha Augustinô Tardieu Phú làm Giám mục Đại diện
Tông ṭa giáo phận Qui Nhơn, Ṭa Giám Mục đặt ở Làng Sông, huyện Tuy
Phước, tỉnh B́nh Định, nhà thờ Chính ṭa của giáo phận là nhà thờ
Tiểu Chủng Viện Làng Sông. Nhà thờ này ngày nay vẫn c̣n đứng vững
cùng với cơ sở Tiểu Chủng Viện. Nhà thờ này theo kiến trúc cổ, mái
ngói tường gạch với bốn hàng cột danh mộc, Đức cha Van Camelbeke Hân
khởi công xây dựng vào năm 1892. Năm 1901, ngài qua đời và được an
táng trong nhà thờ này.
Khi Đức cha Tardieu làm Giám mục (1930-1942), th́ Ṭa Giám Mục và
sở Quản lư nhà chung được dời xuống Qui Nhơn. Lúc bấy giờ nhà thờ
giáo xứ Qui Nhơn nhỏ hẹp nằm trong khuôn viên Ṭa Giám Mục ngày nay,
được sử dụng như nhà thờ Chính ṭa tạm. [22]
Sau khi xây dựng Ṭa Giám mục, Đức cha Tardieu xây dựng nhà thờ
Chính Ṭa Qui Nhơn như ngày nay. Công tŕnh được khởi công ngày 01
tháng 10 năm 1938 do hội kiến trúc SIDEC [23] thực hiện. Cha
Dorgeville thay mặt giáo phận giám sát việc thực hiện hợp đồng. Công
tŕnh kiến thiết đă hoàn tất ngày 10/11/1939 và lễ khánh thành nhà
thờ đă được cử hành ngày 10/12/1939, Nhà thờ được dâng kính Đức Mẹ
Mân Côi. Dự lễ khánh thành có Đức cha Lemasle (Huế) chủ tọa lễ đại
triều và giảng lễ, Đức cha Jannin (Kontum) ban phép lành bế mạc
trọng thể, Đức cha Tardieu làm phép nhà thờ, độ 30 linh mục, trong
số đó có cha Chapuis Đại diện Thừa ủy Huế, cha Louison miền truyền
giáo Kontum, các thầy đại chủng viện hát lễ, độ 30 chú tiểu chủng
sinh giúp lễ, các em thiếu nhi đồng phục dàn chào, nam nữ tu sĩ các
hội ḍng: Thừa sai Bác Ái, Thánh Giuse Kim Châu, Mến Thánh Giá G̣
Thị, Franciscaine Qui Ḥa, St. Paul de Chartres Kim Châu; giáo dân
Qui Nhơn và các giáo xứ lân cận.[24]
Kiến trúc của nhà thờ: Nhà thờ h́nh thánh giá, dài 57,50 mét,
rộng 22,60 mét, hai hàng cột đúc ximăng cốt thép, phân nhà thờ ra ba
gian. Gian chính giữa rộng 8 mét, cung thánh rộng 8 mét, dài 14,50
mét. Sau cung thánh có 5 bàn thờ phụ. Nhà thờ có thể dung nạp đến
1.500 người.
Nhà thờ có một tháp nhọn cao 47,20 mét tại cửa tiền. Trong
Bulletin MEP tháng 2-1940 có ghi vài nét về nhà thờ: “Qui Nhơn chưa
có nhà thờ Chính Ṭa. Trong 10 năm qua đă kiến thiết Đại Chủng Viện,
Ṭa Giám Mục. Sự chờ đợi đă kéo dài, dù sao ngày nay đă có kết quả,
gây thán phục chung trước một ngôi thánh đường đẹp, tháp nhọn bắn
vút lên nền trời Qui Nhơn. Bên trong bài trí tuy giản dị, song gây
một ấn tượng hùng tráng và tỉnh mịch ” .
Qua những cuộc chiến tranh xảy ra trong thời gian 1945-1975, nhất
là khi lệnh tiêu thổ kháng chiến được ban hành vào cuối năm 1946
nhưng nhà thờ Chính Toà Qui Nhơn đă không bị tàn phá, người tín hữu
Qui Nhơn nh́n nhận đây là nhờ ơn che chở của Mẹ Maria, bổn mạng của
giáo xứ.
2. Thời Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc
Chi
Thời cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch làm cha chính xứ,
nhà thờ Chính Ṭa được tu sửa, quét vôi, sân trước tiền đường được
mở rộng và nâng cao như chiều cao và diện tích hiện nay,[25] bên
dưới các cửa sổ được đặt những tấm lam để nhà thờ được thông thoáng
hơn.
* Ngày 23/02/1962, quả chuông lớn nặng 1.800kg, đường kính 1,25m
đă được đặt lên tháp nhà thờ trên độ cao 25m. Quả chuông nầy nguyên
là của nhà thờ Saint Pancratius ở Chicago do cha Robert Niec phụ
trách. Với ư hướng ḥa b́nh và t́nh hữu nghị, cha Robert Niec dâng
cúng quả chuông nầy qua trung gian ông John Grozdiak, một kỹ sư
người Hoa Kỳ đă quen biết Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi từ nhiều
năm trước. Quả chuông được chở trên chiếc tàu ‘Sainte Mère Eglise’
và cập bến Sài G̣n ngày 27/01/1962, đưa về tới Qui Nhơn ngày
14/02/1962.[26]
* Ngày 19/03/1963, bàn thờ bằng một khối hồng thạch dài 3m, rộng
1,10m, cao 1m, có h́nh dáng ḥm bia thánh với hai chân tṛn vững
chắc được đặt ở cung thánh. Bàn thờ nầy đă được khởi công khai thác
đá tại Non Nước, Đà Nẵng từ cuối năm 1962. Cũng trong dịp nầy, cung
thánh và lối đi giữa ḷng nhà thờ được lát gạch bông, tượng Đức Mẹ
hồn xác lên trời được đặt trên trụ granito kề giữa bàn thờ.[27]
Nguyên từ ngày khánh thành (10/12/1939) nhà thờ Chính Ṭa đă được
dâng kính Đức Mẹ tước hiệu Mân Côi. Đến ngày 25/06/1961, cuối nghi
thức đăng ṭa Giám mục Chính Ṭa, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi
xướng kinh kính Đức Mẹ hồn xác lên trời, từ đó Đức Mẹ tước hiệu hồn
xác lên trời được chọn làm bổn mạng nhà thờ Chính Ṭa.[28]
* Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch xây dựng trường tiểu học Sao Biển,
sát khuôn viên nhà thờ chính ṭa, giao cho các sư huynh Lasan điều
hành.
* Cha lập cô nhi viện thánh Phaolô, nằm phía Tây trong khuôn viên
đất nhà thờ, ngày nay là tu viện Phaolô.
3. Thời Đức cha Đôminicô Hoàng Văn Đoàn
* Năm 1974 cha Giuse Tô Đ́nh Sơn đă khởi công xây dựng hội trường
nhà thờ Chính Ṭa. Họa đồ hội trường có ba tầng, nhưng chỉ mới thực
hiện được hai tầng, công tŕnh bị dừng lại và chưa khánh thành.
* Bên cạnh nhà thờ về phía Đông, có dăy nhà 01 tầng, ngày nay là
Chủng Viện Qui Nhơn. Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch đă từng đặt văn
pḥng giáo xứ tại đây.
4. Thời Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các
- Thời cha Tổng Đại diện Giuse Phan Văn Hoa làm chính xứ, sau đó
làm Giám mục phó, Đức cha Giuse t́m cách giúp đỡ, đưa các gia đ́nh
tạm cư phía sau nhà thờ Chính Ṭa định cư nơi khác, một số về quê
quán, một số định cư ở Qui Nhơn.
* Tu sửa nhà thờ Chính Ṭa và chỉnh trang khuôn viên
Để mừng kỷ niệm 50 năm xây dựng nhà thờ Chính Ṭa Qui Nhơn
1939-1989, Đức cha Phaolô đă cho lát đá hoa cương gian cung thánh và
sơn quét lại ngôi thánh đường. Cũng trong dịp nầy, bờ tường và cổng
ngơ được xây dựng kiên cố. Đại lễ kỷ niệm 50 năm đă được cử hành
trang trọng và ấm cúng.
* Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức
Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các đă khởi công xây dựng Hang Đá Lộ
Đức bên cạnh nhà thờ Chính Ṭa. Thầy F.X. Lữ Minh Điểm phụ trách
thực hiện kết cấu, cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi phụ trách mỹ thuật.
Công tŕnh được làm phép ngày 07/11/1991.[29]
- Thời cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn
Soạn làm cha sở Chính Ṭa:
* Đồng hồ trên tháp
Năm 1992, đồng hồ điện tử có bốn mặt được đặt trên tháp chuông.
Tiếng chuông đồng hồ và bài nhạc thánh ca Ave Ave Ave Maria điểm giờ
là lời mời gọi con cái nhớ đến Hiền Mẫu Maria, bổn mạng của giáo xứ
và cũng là một nét văn hóa ở Qui Nhơn.
* Nhà thờ Hội Lộc
Cha Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Soạn đă xây dựng ngôi thánh đường
khang trang tại Hội Lộc thuộc bán đảo Phương Mai. Lúc bấy giờ chưa
có cầu Thị Nại dài gần 3 km nối liền bán đảo Phương Mai với thành
phố Qui Nhơn như ngày nay. Tất cả vật tư xây dựng phải được vận
chuyển bằng ghe thuyền, rất khó khổ và tốn kém gấp bội. Công tŕnh
nhà thờ đă khởi công xây dựng năm 1995 và đă hoàn thành năm 1996.
Tại đây có thánh lễ Chúa nhật hàng tuần do các cha giáo xứ Chính Ṭa
phụ trách. Ngày 28/8/2005, cha Gioakim Dương Minh Thanh, phó xứ
Chính Toà được bổ nhiệm đặc trách Hội Lộc, thường trú tại đây để
chăm sóc mục vụ cho các tín hữu ở rải rác trên bán đảo nầy. Ngày
17/9/2009, Hội Lộc được thành lập giáo xứ.
5. Thời Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn
- Cha Tổng Đại Diện Anrê Huỳnh Thanh Khương làm chính xứ giáo xứ
Chính Ṭa, đă tu sửa và xây dựng:
* Nhà xứ mới
Đức cha Phêrô đă cho nâng tầng hội trường nhà xứ lên một tầng nữa
đúng với kiến trúc nguyên thủy, để làm nhà xứ. Công tŕnh được khởi
công ngày 05/9/2000, hoàn thành ngày 20/12/2000. Ṭa nhà ba tầng,
nằm cạnh nhà thờ, có chiều dài 42m, rộng 15,6m, có đủ pḥng cho các
cha chính xứ, cha phó, thầy giúp xứ, pḥng họp, pḥng khách, pḥng
truyền thống và hội trường.
* Nhà An B́nh
V́ nhu cầu của của giáo xứ, cha Tổng Đại Diện Anrê Huỳnh Thanh
Khương đă cho xây dựng nhà An B́nh để đặt hài cốt các tín hữu. Công
tŕnh đă được khởi công ngày 18/6/2001 và được làm phép ngày
29/11/2001. Nhà có chiều dài 20m rộng 4m, giữa có nhà lục giác để cử
hành thánh lễ. Đây là một công tŕnh độc đáo, lộ thiên và đẹp đẽ,
rất thuận tiện cho việc thăm viếng và cầu nguyện. Nhà An B́nh có thể
dung nạp 2.200 quách hài cốt, hiện nay đă đặt khoảng hơn 1.500 quách.
Trước đó, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các đă cho làm Nhà An B́nh tại
hội trường nhà xứ. Nhà An B́nh nầy đă được dời ra Nhà An B́nh mới.
* Nhà cơm, nhà bếp, nhà kho, nhà để xe
Để chuẩn bị cho việc xây dựng Tượng đài và quăng trường Thánh
Giuse, cha Tổng Đại Diện Anrê đă xây một dăy nhà dài 28m, rộng 8m,
gồm pḥng ăn, pḥng nấu ăn, nhà để xe và ba pḥng kho để thay thế
dăy nhà cũ cần tháo dỡ làm quăng trường. Công tŕnh khởi công ngày
18/11/2001 hoàn thành ngày 25/5/2002.
* Tượng đài và quảng trường Thánh Giuse
Cha Tổng Đại Diện Anrê khởi công xây dựng ngày 10.02.2003, khánh
thành ngày 01/5/2003 nhằm ngày lễ Thánh Giuse Thợ và cũng là ngày lễ
truyền chức linh mục cho 7 thầy phó tế tại lễ đài nầy. Tượng thánh
Giuse cao 2,4m. Lễ đài có diện tích: 22m x 9m, cao 1,2m thuận lợi
cho việc cử hành Thánh lễ ngoài trời.
* Nhà xứ Hội Lộc
Khởi công xây dựng ngày 01/7/2003, diện tích 14m x 10m gồm 3
pḥng, giữa là pḥng khách, hai bên là pḥng ở. Trong khi xây dựng
nhà xứ, nhà thờ cũng được tu sửa: Thay mái ngói bằng mai tôn, thay
một số cây đà và ruôi mè bị mối mọt, sửa lại trần nhà thờ, gia cố
hai cánh nhà thờ, sơn sửa toàn bộ trong ngoài, mua thêm đất nới rộng
khuôn viên nhà thờ và xây tường rào khuôn viên nhà thờ. Lễ khánh
thành đă được tổ chức vào ngày 28/12/2003.
* Nhà thờ Chính Ṭa
Để chuẩn bị cho ngày đại lễ tạ ơn Thiên Chúa 100 năm thành lập
giáo xứ (1905 –2005), ngoài việc chuẩn bị tâm hồn giáo dân, cha Anrê
Huỳnh Thanh Khương c̣n khởi công tu sửa, chỉnh trang nhà thờ Chính
Toà. Khi việc sơn nước bên trong, việc thay nền gạch ciment thô nhám
bằng nền gạch bóng láng, việc nới rộng, nâng cao và lát đá granite
nền cung thánh vừa xong, cha Anrê lâm bạo bệnh và đột ngột qua đời
vào ngày 13/01/2005. Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn cho tiếp tục sơn
nước bên ngoài, lắp đặt hệ thống âm thanh mới hiện đại và hiệu quả.
Thời cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi làm cha sở, cha đóng mới lại
toàn bộ bàn ghế giáo dân trong nhà thờ.
* Mừng 100 năm thành lập giáo xứ (1905 –2005) và bổ nhiệm cha sở
mới
Vào lúc 17 giờ 00 ngày 12/8/2005, Thánh lễ tạ ơn được cử hành
trang trọng do Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám Mục giáo phận chủ tế
với 48 Linh mục đồng tế, cùng hiệp dâng Thánh lễ có các tu sĩ Hội
Ḍng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, Ḍng Thánh Phaolô Đà Nẵng, Ḍng Phan
Sinh Thừa Sai Đức Mẹ và đông đảo giáo dân trong và ngoài giáo xứ.
Cộng đoàn phụng vụ c̣n hiệp ư cầu nguyện cho Đức Giám mục, giáp 06
năm lănh nhận sứ mạng chủ chăn. Cũng trong Thánh lễ nầy, Đức Giám
Mục bổ nhiệm cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi làm chính xứ giáo xứ Chính
Toà Qui Nhơn. Cuộc mừng lễ 100 năm thành lập giáo xứ được nối dài
với buổi diễn nguyện tại quảng trường Thánh Giuse, đại lễ tạ ơn của
giáo xứ đă kết thúc vào lúc 21giờ 30 cùng ngày.
* Nhà giáo lư
- Ngày 26 tháng 02 năm 2007, cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi đă khởi
công xây dựng nhà giáo lư tại khu đất phía sau nhà thờ với tổng diện
tích sử dụng 680m². Sau một năm xây dựng, nhà giáo lư đă hoàn thành.
Ngày 15 tháng 3 năm 2008, Đức cha Phêrô làm phép ngôi nhà giáo lư
nầy .
V. HIỆN T̀NH GIÁO XỨ ( cuối năm 2016)

VI. LINH MỤC VÀ TU SĨ XUẤT THÂN
* Linh mục
1. Phêrô Vơ Thanh Nhàn
2. Antôn Trần Liên Sơn
3. Phêrô Nguyễn Hải
4. Giuse Dương Quang Minh
5. FX. Nguyễn Hoàng Việt
6. Giuse Phan thế Vinh
7. Luy Nguyễn Xuân Vũ
8. Phêrô Trần Quốc Cường
9. Philipphê Phan Quốc Dũng
10. Luy Huỳnh Minh Tú (phó tế)
* Nữ tu
1. Anna Trương thị Ngọc Dung
2. Elizabeth Trần thị Tuyết Hà
3. Maria Vơ thị Thu Thủy
4. Madalena Dương thị Kim Oanh
5. Maria Dương thị Thu Thủy
6. Maria Nguyễn thị Lệ Thủy
7. Matta Phan thị Ánh Loan
8. Anna Phạm thị Bích Ty
9. Mađalena Nguyễn thị Như Trâm
....................................
[1] Dịch giả Nguyễn Tạo, Đại Nam Nhất Thống Chí Tỉnh B́nh Định,
Văn Hóa Tùng Thư, 1964, trang 11.
Về thời điểm chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ
Qui Nhơn có những ư kiến khác:
Theo Quách Tấn, Nước Non B́nh Định, nxb Thanh Niên, 1999, trang
6, đó là năm 1605 (Ất Tỵ).
Theo Tiến sĩ Lê Đ́nh Phụng, Thành Hoàng Đế Kinh Đô Vương Triều
Tây Sơn, nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội 2007, trang 78, đó là năm 1604.
Tuy nhiên, ở trang 51-52, Tiến sĩ Lê Đ́nh Phụng viết về việc Nguyễn
Hoàng đổi tên các khu vực hành chánh vào năm 1604, riêng tên gọi Phủ
Hoài Nhơn vẫn được giữ nguyên.
Nhiều ư kiến khác cho rằng chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài
Nhơn thành phủ Qui Nhơn vào năm 1602.
[2] Đỗ Bang và Nguyễn Tấn Hiểu chủ biên, Lịch sử thành phố Quy
Nhơn, nxb Thuận Hóa, 1998, trang 125-128
[3] Quách Tấn, sđd, trang 202.
[4] Trần Đ́nh Thái, Ai Có Về Qui Nhơn, 1973, trang 10.
[5] Mgr. Van Camelbeke, Archives MEP, Rapport No. 204, Rapport de
1879
[6] Đỗ Bang và Nguyễn Tấn Hiểu chủ biên, sđd, trang 148-151.
[7] Đại Nam Điển Lệ Toát Yếu, Nguyễn Sĩ Giác dịch, tp. HCM, 1993,
trang 422
[8] Đỗ Bang và Nguyễn Tấn Hiểu chủ biên, sđd, trang 96.
Đường Trần Cao Vân hiện nay là ranh giới ngày xưa giữa làng Chánh
Thành và Cẩm Thượng.
Làng Chánh Thành xưa bao gồm địa giới nay là các phường : trọn
phường Hải Cảng, phần lớn phường Lê Lợi, một phần nhỏ phường Trần
Phú và phường Trần Hưng Đạo.
- Làng Cẩm Thượng xưa bao gồm địa giới nay là các phường: trọn
phường Lê Hồng Phong, phần lớn phường Trần Phú, phường Lư Thường
Kiệt, phường Trần Hưng Đạo và một phần nhỏ của phường Lê Lợi. Đ́nh
làng Cẩm Thượng xưa, nay là Nhà văn hóa thành phố Qui Nhơn, 354 Trần
Hưng Đạo, Qui Nhơn.
[9] Thôn Xuân Vân, ngày nay là phường Ghềnh Ráng. Thôn Xuân Quang
ngày nay là phường Quang Trung và phường Ngô Mây
[10] Đỗ Bang và Nguyễn Tấn Hiểu, sđd, trang 147.
[11] Giáo xứ Tân Dinh ngày nay.
[12] - Mgr. Grangeon, Archives MEP, Rapport No. 669, Rapport de
1905, III Binh-dinh 13.
[13] Nay nhà nước trưng dụng làm Đại học Qui Nhơn
[14] Khi giáo xứ Qui Nhơn có nhà thờ Chính Ṭa th́ trong các văn
bản của giáo phận có khi dùng tên gọi giáo xứ Qui Nhơn, có khi dùng
tên gọi giáo xứ Chính Ṭa như ngày nay.
[15] Archives MEP, Fiche biographique No.3141, Marcel Piquet.
[16] Theo sổ rửa tội c̣n lưu tại nhà thờ Chính Ṭa, Cha Đoan kư
sổ cuối cùng vào ngày 18/3/1946.
[17] Nguyễn Công Luận, Giáo phận Qui Nhơn dưới thời Việt Minh
1945-1954, Đặc san Hoa T́nh Thương, tháng 7 năm 1995.
[18] Nhà xứ tọa lạc ngay trước đài Thánh Giuse hiện nay. Cha Anrê
Huỳnh Thanh Khương đă cho tháo dỡ vào năm 2002 để mở rộng sân nhà
thờ và đài thánh Giuse.
[19] Lm. Phêrô Nguyễn Quang Báu, câu chuyện người thủ từ, trang
8.
[20] Cù lao xanh
[21] Bản thông tin Địa phận Qui Nhơn, số 56, tháng 6 năm 1968,
trang 11-12.
[22] Sau khi nhà thờ Chính Ṭa hiện nay được khánh thành, nhà thờ
trong khuôn viên Ṭa Giám Mục được tháo dỡ, cây gỗ và nhà tạm được
chuyển đến giáo họ G̣ Dài để làm nhà thờ giáo họ.
[23] Société Indochinoise d’études et construction
[24] Mémorial Mission de Qui Nhơn, Dec. 1939, p.3
[25] Sân tiền đường và các bậc cấp được cha Anrê Huỳnh Thanh
Khương cho làm lại bằng đá mài.
[26] Thông tin Địa Phận số 26, tr.10
[27] Thông tin Địa Phận số 36, tr.34
[28] Thông tin Địa Phận số 21, tr. 16
[29] Số liệu nầy được ghi tại bài giảng của cha Phêrô Nguyễn Soạn
trong dịp Lễ làm phép hang đá.
Tác giả bài viết: Ban biên tập lịch sử Giáo phận
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn ( 07/12/2017 )
Tham khảo thêm : [Lược
sử Giáo xứ Chính Ṭa Quy Nhơn] - Tác giả bài viết: Lm. Gioan Vơ
Đ́nh Đệ
|