|

Lược
sử Giáo xứ Đại An
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn (19/10/2018)
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ Đại An bao gồm địa bàn các thôn Xuân An, Chánh Lạc, Chánh
Liêm, Chánh Lư thuộc xă Cát Tường; các xă Cát Nhơn, Cát Hưng, Cát
Thắng thuộc huyện Phù Cát; các thôn Ḥa Tây, Ḥa Đông, B́nh An, Nhơn
Thiện thuộc xă Nhơn Hạnh và xă Nhơn Phong, thị xă An Nhơn, tỉnh B́nh
Định. Địa bàn mục vụ giáo xứ Đại An: phía Bắc giáp giáo họ biệt lập
Ḥa Mục, phía Nam giáp giáo xứ Nam B́nh, phía Đông giáp giáo xứ Vĩnh
Thạnh, phía Tây giáp giáo xứ Phù Cát.
Nhà thờ Đại An tọa lạc trên đường quốc lộ 19B, tại thôn Đại Ân,
xă Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh B́nh Định.


II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ
1. Giai đoạn h́nh thành
Đại An là vùng đất ở giữa những giáo điểm lâu đời như Mương Lỡ ở
phía Bắc, Diêm Điền, G̣ Thị, Xóm Nam ở phía Nam. Từ những giáo điểm
đó, Tin Mừng được đưa đến Đại An. Giáo điểm Đại An đă được thành lập
khoảng năm 1835-1836. Số giáo dân phát triển rất chậm dưới các thời
vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Số giáo dân duy tŕ suốt một
thời gian dài chỉ khoảng trên dưới 50 người. Theo thống kê năm 1850,
trong 17 họ đạo thuộc địa sở Tam Thuộc có các họ đạo thuộc giáo xứ
Đại An ngày nay: Đại An có 71 giáo dân, Tân Hội 91 giáo dân, Thơ
Lĩnh[1] 61 giáo dân. Năm 1859, thời điểm vua Tự Đức ban hành sắc chỉ
cấm đạo gắt gao, số giáo dân họ đạo Đại An khoảng 100 người. Sau khi
chiếu chỉ tha đạo được vua Tự Đức ban hành, số giáo dân cũng không
tăng mấy.
Trong những năm cấm đạo gắt gao, Đức cha Cuénot Thể phải ẩn trú
rày đây mai đó trong Giáo phận. Năm 1855, sau khi trốn lánh và dưỡng
bệnh ở Gia Hựu, trên đường trở về G̣ Thị, ngài ghé thăm Thác Đá,
Đồng Hâu, Đồng Quả, chủng viện Mương Lỡ và Đại An.
Khi chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức được thi hành triệt để, cha
Giuse Stêphanô Chung, quê họ đạo Thơ Lĩnh, gần Cảnh Hàn, bị bắt tại
họ đạo Phú Cốc, chịu trảm quyết tại G̣ Chàm vào ngày 23 tháng Chạp
năm Tự Đức thứ 12, khoảng đầu năm 1860.[2] Ông Tađêô Quí giáo dân họ
đạo Tân Hội bị trảm quyết tại G̣ Chàm vào ngày 02 tháng 3 năm Tự Đức
thứ 15, khoảng tháng 5 năm 1862.[3] Cha Chung và ông Quí đă được Ṭa
thánh tôn lên hàng Tôi tớ Chúa tử đạo trong Sắc lệnh ban hành ngày
12 tháng 11 năm 1918.
Khoảng thời gian 1880 – 1885, số giáo dân gia tăng, năm 1885 Đại
An có khoảng 350 người với một nhà nguyện đơn giản. Đầu tháng 08 năm
1885, hầu hết giáo dân Đại An bị Văn Thân thiêu sống trong nhà
nguyện, chỉ có 20 người trốn thoát và 12 người chối đạo c̣n sống sót.
Cảnh Hàn, Thạnh Ḥa, Tân Hội, những họ đạo ven sông cùng chịu chung
cuộc bách hại, tuy nhiên số giáo dân trốn thoát được nhiều hơn. [4]
2. Phát triển thành địa sở
Sau đại nạn Văn Thân, Đại An dần dần được hồi sinh theo các đời
cha sở Đại An. Năm 1889, cha Damien Grangeon Mẫn, một thừa sai trẻ
được bổ nhiệm làm việc tại Đại An. Năm 1890, một thừa sai trẻ khác
cũng được bổ nhiệm đến Đại An là cha Louis Blais Lực, thay cho cha
Grangeon Mẫn.[5]
Nhờ ơn Chúa và sự năng động của 2 linh mục này, Đại An được hồi
sinh rất nhanh. Theo báo cáo hằng năm của Đức cha Van Camelbecke Hân
về Giáo phận Đông Đàng Trong năm 1890, Đại An có 1.344 Kitô hữu,[6]
trong đó có 767 tân ṭng được cha Grangeon Mẫn rửa tội và 166 người
được cha Louis Blais Lực rửa tội. V́ số người tân ṭng ở rải rác
trong địa bàn mục vụ, nên các họ đạo mới được thành lập: Mỹ Chí,
Xuân Yên, Vạn Sơn, Chánh Lộc, đồng thời tái thành lập các họ đạo đă
có trước: Kiều Đông, An Đước và một số họ đạo khác. Họ đạo Kiều Đông
trước đó thuộc địa bàn mục vụ của các cha ở G̣ Thị, nhưng được sáp
nhập vào địa sở Đại An năm 1890 để thuận lợi cho việc mục vụ.
Năm 1893, chủng viện thứ hai trong Giáo phận được xây dựng tại
Đại An, v́ chủng viện Làng Sông không đủ chỗ cho số chủng sinh của
Giáo phận. Năm 1894 công tŕnh xây dựng được hoàn tất và đưa vào
sinh hoạt dưới sự điều hành của cha Panis Ngăi. Cha Grangeon Mẫn từ
Làng Sông về làm giáo sư ở chủng viện nầy. Sau khi chủng viện được
thành lập, một vài cơ sở khác của nhà chung cũng lần lượt được thành
lập tại khu đất liền kề chủng viện như: Trường thầy giảng (1897),
nhà hưu dưỡng các linh mục Việt Nam (1909), pḥng thuốc, phước viện
Mến Thánh Giá.[7] Tất cả các cơ sở nầy có quy chế sinh hoạt riêng,
không thuộc quyền cha sở Đại An. Tuy nhiên nó đă đem lại cho giáo
dân Đại An giá trị tinh thần như cha Jean Gagnaire Định viết trong
báo cáo năm 1903: "Họ không giàu của cải vật chất, v́ họ sống ở một
vùng đất khô cằn, đôi khi bị nắng cháy khô hạn, đôi khi bị tàn phá
bởi những con suối chảy từ trên núi xuống. Giáo dân Đại An đă nhận
được một nền giáo dục vững chắc và một đức tin sống động. Đại An có
lợi thế lớn khi có Đại chủng viện trong địa bàn của ḿnh".[8]
Từ năm 1903, Đức cha Damien Grangeon Mẫn quyết định trường Làng
Sông là Tiểu chủng viện dành cho các chú, dưới sự điều hành của cha
Gagnaire Định, với sự phụ giúp của hai thừa sai và một linh mục Việt
Nam; c̣n chủng viện Đại An là Đại chủng viện dành cho các thầy, dưới
quyền điều hành của cha Constant Jeanningros Vị, với sự trợ giúp của
một thừa sai và một linh mục Việt Nam. Trường đào tạo các thầy giảng
vẫn được gắn liền với Đại chủng viện Đại An.
Năm 1895, cha Blais Lực đă khởi công xây dựng nhà thờ Đại An.
Nh́n thấy công tŕnh sắp hoàn thành, cha vui mừng chắp bút: "Cuối
cùng, tôi phải nói một lời về nhà thờ to lớn đang sắp hoàn thành ở
Đại An. Giáo dân của tôi và tôi rất vui mừng khi có một ngôi đền thờ
xứng đáng với Thiên Chúa được thờ phượng ở đó. Những cực nhọc, lo
lắng, hy sinh mà chúng tôi bỏ ra đă được quên hết, chúng tôi chỉ
nghĩ đến việc chiêm ngưỡng nó. Ngày khánh thành nơi thánh mới nầy sẽ
là ngày lễ cao quư đối với chúng tôi".[9] Ngày 09 tháng 03 năm 1896,
Đức cha Van Camelbeke Hân chủ sự lễ khánh thành trọng thể, có sự
hiện diện của các chú ở Tiểu chủng viện Làng Sông.
Năm 1897, riêng họ đạo Đại An đă có số giáo dân gần 500 người.
Trong 7 năm làm việc tại Đại An, cha Blais Lực đă thành lập 9 họ đạo
và lập lại nhiều nhà thờ, nhà nguyện ở trong vùng. Năm 1897, cha
được bổ nhiệm làm cha sở Kim Châu.
Năm 1899, dưới thời cha Gagnaire Định làm cha sở, một số họ đạo:
Kiều Đông, G̣ Găng (Châu Thành), Tân Ḥa, Phú Gia, Vạn Sơn, được
tách khỏi Đại An để lập thành địa sở Kiều Đông. Năm 1900, cha
Gagnaire xây dựng nhà xứ Đại An đủ lớn, tiện nghi, theo kiểu dáng
như nhà thờ.
Năm 1903, cha Jean Souverbielle Đoán được bổ nhiệm làm cha sở Đại
An. Theo báo cáo hằng năm, năm 1903 Đại An đă có 2.555 giáo dân,
trong 16 họ đạo. Riêng năm này có 153 người lớn được rửa tội. Năm
1905 số tín hữu Đại An có 2.604 người. Năm 1921, một số họ đạo của
Đại An được tách cho Phương Phi, nên năm 1922 Đại An chỉ c̣n 1.103
tín hữu.
Năm 1932, Đại Chủng viện Đại An được dời về Qui Nhơn.[10] Giàn gỗ
nhà nguyện của Đại chủng viện được tháo dỡ đem về ráp lại ở Đại
chủng viện Qui Nhơn.[11] Hai tháp cao của nhà nguyện do cha Panis
Ngăi xây dựng năm 1896 c̣n để lại. Năm 1947, Việt Minh ra lệnh tiêu
thổ kháng chiến, hai tháp nầy bị phá hủy. Năm 1943, Nhà hưu dưỡng
linh mục được dời về Làng Sông. Sau khi các cơ sở được dời đi, cả
quần thể nầy được bán cho ông Cửu Bá ở Chánh Lộc.[12]
Năm 1942 địa sở Đại An có 1.040 giáo dân trong 6 họ đạo: Đại An,
Cảnh Hàn, Xuân Yên, Thạnh Ḥa, Tân Hội và Mỹ Chí. Theo quyết định
của Hội đồng Giáo phận họp tại Ṭa Giám mục Qui Nhơn ngày 06 tháng
02 năm 1961, địa sở Đại An được tuyên bố là một trong số 49 giáo xứ
chính thức theo giáo luật (Paroecia) trong Giáo phận Qui Nhơn (lúc
ấy chưa chia tách Giáo phận Đà Nẵng).[13]
Năm 1965, v́ lư do chiến tranh, cha Antôn Hoàng Liên Mầu cùng với
giáo dân di cư đến thị trấn Phù Cát. Mặc dù ở trong địa bàn của giáo
xứ Phù Cát nhưng cha Mầu vẫn là cha sở của giáo dân di cư nầy. Ngày
17 tháng 11 năm 1971, cha Mầu đột ngột qua đời.
Cha Simon Nguyễn Kim Ngọc được bổ nhiệm làm cha sở Đại An tại
Trung tâm huấn luyện Phù Cát.[14] Cha đă đến nhận nhiệm sở vào ngày
12 tháng 12 năm 1971. Do chiến cuộc năm 1975, cha di cư sang Hoa Kỳ,
một số giáo dân di cư nơi khác.
3. Giai đoạn thuộc quyền cha sở Phù Cát
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, một số ít giáo dân lần hồi trở về
Đại An. Cuối năm 1977, tại Đại An có khoảng 339 người trong 64 gia
đ́nh; Thạnh Ḥa và Tân Hội khoảng 83 người trong 15 gia đ́nh; Xuân
Yên khoảng 131 người trong 21 gia đ́nh. Nhà thờ Đại An cũng như các
nhà thờ giáo họ đều bị hoang phế. Mặt tiền nhà thờ Đại An loang lổ
vết đạn, mái ngói lơ thơ c̣n vài nhóm bám víu vào mấy khúc rui mè,
tường đă rêu phong. Giáo dân xót xa chứng kiến cảnh hoang tàn của
một công tŕnh vang bóng một thời.
Trong bối cảnh đó, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các bổ nhiệm cha
Phêrô Nguyễn Công Sanh, cha sở Phù Cát, kiêm nhiệm mục vụ giáo xứ
Đại An. Lúc bấy giờ Đại An như một giáo họ của giáo xứ Phù Cát. Giáo
dân phải đi bộ hoặc đi xe đạp lên Phù Cát để lănh nhận các bí tích.
Do đó, việc giữ ngày Chúa nhật là một thách đố đối với nhiều người.
Để có thể nuôi dưỡng đức tin, một số giáo dân thiện chí có thể nêu
lên ở đây như bà Chín Cả, bà Mười Đồng, bà Năm Lạc, bà Sáu Tụng, bà
Trâm, ông bà Đờn, ông bà Quyển, bà Ba Tiến... đem tượng Đức Mẹ đặt ở
phần c̣n lại phía sau của nhà xứ, dù chỉ c̣n ba bức vách rêu phong.
Nơi đây Mẹ đón nhận những lời kinh trong nước mắt của những đứa con.
Năm 1984, nhà thờ bị chính quyền địa phương tháo dỡ, san bằng để
làm trường học. Năm 1994, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các giao cha
Sanh xây dựng lại nhà thờ trên nền nhà xứ cũ của Đại An với diện
tích 20,5m x 11,7m. Thầy Anrê Đinh Duy Toàn, đang ở với gia đ́nh tại
Thạnh Ḥa, là người trực tiếp tập kết vật tư và thi công. Nhà thờ
nay vẫn đang được sử dụng. Ngoài ra, phía đông hang đá Đức Mẹ có ba
gia đ́nh cũng được thỏa thuận để họ dời đi nơi khác. Hang đá Đức Mẹ
được trùng tu. Ngày nay chỉ c̣n phần trên, phần đế hang đá bị lấp,
v́ nơi đây là chỗ trũng, thấp hơn mặt đường.
Mặc dù đă có nhà thờ nhưng giáo dân vẫn phải lên Phù Cát dâng lễ
Chúa Nhật, nhất là các em phải lên Phù Cát để học giáo lư rước lễ
lần đầu và thêm sức. Để giải quyết vấn đề các em phải đi xa mà thiếu
phương tiện, cha Sanh đă thuê mỗi hai tuần một chuyến xe để đưa các
em lên Phù Cát học giáo lư và dâng lễ Chúa Nhật.
Ngày 18 tháng 06 năm 2005, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn kư Văn thư
bổ nhiệm cha Phaolô Nguyễn Văn Khiêm làm cha sở Phù Cát. Tiếp nối
công việc của cha tiền nhiệm, cha Khiêm củng cố ban chức việc, cử
người dạy giáo lư cho các em, hằng tuần cha về Đại An dâng lễ.
Ngày 23 tháng 10 năm 2009, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn kư Văn thư
bổ nhiệm cha Giuse Phan Văn Hay làm phó xứ Phù Cát. Từ đây giáo dân
xứ Đại An được hai cha thay phiên lên xuống chăm sóc mục vụ. Để
chuẩn bị cho ngày Đại An được tái thành lập xứ, cha Khiêm xây nhà xứ
tạm đủ cho việc sinh hoạt.
Ngày 01 tháng 09 năm 2015, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi kư Văn
thư bổ nhiệm cha Giuse Phan Văn Hay, phó xứ Phù Cát, đặc trách giáo
họ biệt lập Đại An gồm các giáo họ: Đại An, Xuân Yên, Cảnh Hàn,
Thạnh Ḥa và Tân Hội. Văn thư có hiệu lực từ ngày công bố 04 tháng
09 năm 2015.
4. Tái lập giáo xứ
Ngày 01 tháng 07 năm 2016, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi kư Văn
thư tái lập giáo xứ Đại An, cùng ngày Đức cha cũng kư Văn thư bổ
nhiệm cha Giuse Phan Văn Hay làm cha sở Đại An. Hai Văn thư nầy có
hiệu lực từ ngày công bố, 18 tháng 07 năm 2016.
Cuối năm 2017 giáo xứ Đại An có 241 gia đ́nh, 885 tín hữu, được
phân bố trong 4 giáo họ: Đại An 517, Cảnh Hàn 106, Thạnh Ḥa 128,
Xuân Yên 134.
5. Các linh mục chánh xứ và phó xứ
- Các cha xứ
1. Cha Damien Grangeon Mẫn (1889-1890) [15]
2. Cha Louis Blais Lực (1890-1897)
3. Cha Jean Gagnaire Định (1897-1902)
4. Cha Jean Souverbielle Đoán (1903-1905)
5. Cha Eugène Durand Lộc (1905-1906)
6. Cha Louis Guillot Nhứt (1906-1907)
7. Cha Justin Etcheberry Ân (1908-1913)
8. Cha Antoine Sudre Thọ (1913-1923)
9. Cha Micae Thiên (1923-1930)
10. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Hộ (1930-1936)
11. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đức Quảng (1936-1938)
12. Cha Phêrô Lê Vĩnh Phước (1938-1941)
13. Cha Gioakim Bùi Vĩnh Mười (1941-1947)
14. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội (1947-1948)
15. Cha Giacôbê Nguyễn Hữu Thiên (1948-1955)
16. Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1956-1957)
17. Cha Giuse Lê Văn Ly (1957-1958)
18. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1958-1959)
19. Cha Antôn Hoàng Liên Mầu (1959-1971)
20. Cha Simon Nguyễn Kim Ngọc (1971-1975).
21. Cha Phêrô Nguyễn Công Sanh, cha sở Phù Cát kiêm nhiệm (1975 -
2005)
22. Cha Phaolô Nguyễn Văn Khiêm, cha sở Phù Cát kiêm nhiệm (2005 -
2015)
23. Cha Giuse Phan Văn Hay (2015 - ...)
- Các cha phó
1. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sanh (1892-1893).
2. Cha Auguste Geoffroy Kim (02.1895-11.1895), ở tại Kiều Đông.
3. Cha Giuse Phan Văn Đến (1896-1899), cha phó biệt lập ở tại Kiều
Đông, phụ trách các họ đạo Châu Thành (G̣ Găng), Tân Ḥa, Kiều An,
Xuân Kiều (Kiều Huyện), Phú Gia và Vạn Sơn.[16]
4. Cha Phêrô Phan Nho (1903-1907).
5. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu (1912-1914).
6. Cha Simon Trần Văn Phiến (1918-1921).
7. Cha Giuse Trần Hoàng Thiện (2017 -...).
6. Linh mục, tu sĩ, chủng sinh xuất thân
từ giáo xứ
1. Cha Giuse Chung, Cảnh Hàn, Tử đạo 1860
2. Cha Phaolô Phan Văn Thoàn, Cảnh Hàn †1921
3. Cha Stêphanô Phan Văn Bính, Cảnh Hàn †1959
4. Cha Antôn Huỳnh Ngọc Thạnh, Thạnh Ḥa, †1941
5. Cha Micae Ngô Trung Lành, Tân Hội †1978
6. Cha Phêrô Huỳnh Quang Sinh, Tân Hội †1975
7. Cha Phaolô Huỳnh Biên, Tân Hội †1980
8. Cha Phaolô Huỳnh Ngọc Cảnh, Thạnh Ḥa
9. Cha Antôn Trần Bạch Hổ, Đại An, Ḍng Ngôi Lời
10. Cha Anrê Đinh Duy Toàn, Thạnh Ḥa, Ḍng Chúa Cứu Thế
11. Cha Gioakim Nguyễn Đức Quang, Đại An
12. Nữ tu Maria Dương Thị Xuân Thanh, Đại An, Ḍng Trợ Thế Thánh Tâm
13. Thầy Phêrô Nguyễn Thanh Thảo, ĐCV Sao Biển Nha Trang
..................
[1] Thơ Lĩnh nay là Cảnh Hàn.
[2] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 53, 24 Mai 1909, tr. 87.
[3] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 53, 24 Mai 1909, tr.
86-87.
[4] Xem Compte-rendu et état de la Mission de Septembre 1941 à
Septembre 1942, Imprimerie de Quinhon, Quinhon - (Annam) 1942, tr.
7-8.
[5] Cha Grangeon Mẫn về làm giáo sư ở Chủng viện Làng Sông.
[6] Lúc bấy giờ địa bàn mục vụ của Đại An bao gồm địa bàn của
giáo xứ Phù Cát và giáo xứ Đại An ngày nay.
[7] Quần thể nầy tọa lạc phía Tây nhà thờ Đại An, cách nhà thờ về
phía Tây khoảng 300 m.
[8] AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1903.
[9] AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1895.
[10] Xem AMEP, Rapport annuel de Quinhon 1932.
[11] Ngày nay vẫn c̣n tại cơ sở Đại chủng viện Qui Nhơn xưa do
trường Đại học Qui Nhơn quản lư.
[12] Ông Cửu Bá tên thật là Gioakim Nguyễn Văn Lượng. Nguyên là
thầy giảng, học tṛ của Đức cha Đamianô Grangeon Mẫn. Ông lập gia
đ́nh với bà Maria Mađalêna Nguyễn Thị Bá. Ông qua đời năm 1948.
[13] Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22, tháng 5 và 6 năm
1961, tr. 13.
[14] Khu tạm cư của giáo dân Đại An tọa lạc trong khu vực Trung
tâm Huấn luyện lính địa phương của tỉnh B́nh Định.
[15] Sinh ngày 27.09.1857 tại Gelles (Pháp), thụ phong linh mục
ngày 18.02.1883. Năm 1902 làm Giám mục, Đại diện Tông ṭa Giáo phận
Đông Đàng Trong (Qui Nhơn).
[16] Các họ đạo nầy được thành lập trong khoảng thời gian từ năm
1890 đến 1900.
Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|
|