
Lược
sử Giáo xứ Đồng Quả
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ :
Đồng Quả là một Giáo xứ ở miền núi vùng Tây Bắc B́nh Định. Mẹ
Maria với tước hiệu Hồn Xác Lên Trời là Bổn mạng Giáo xứ Đồng Quả.
Trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Giáo xứ thuộc thôn Kim Sơn, xă Ân
Nghĩa, huyện Hoài Ân, tỉnh B́nh Định. Từ Cầu Dợi trên quốc lộ IA,
cách nhà thờ Đại B́nh về hướng Bắc khoảng 02 km, theo tỉnh lộ 630 đi
đến Kim Sơn khoảng 27 km.
II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ :
Thung lũng Kim Sơn vừa có núi rừng hùng vĩ, vừa có ḍng sông Kim
Sơn ẻo lả chuyển ḿnh khi vào Nam, khi ra Bắc, khi xuôi Đông, quanh
co uốn lượn đem nguồn nước cung cấp cho vùng đất. Hai ḍng sông nhỏ
là Nước Lương và Nước Roong phát nguyên từ huyện An Lăo hợp với sông
Nước Mang và những khe suối hai bên bờ tạo thành sông Kim Sơn. Sông
Kim Sơn chảy đến Phú Văn, xă Ân Thạnh gặp nguồn sông An Lăo hợp
thành ḍng sông Lại Giang. Nước sông Lại Giang chảy qua Bồng Sơn,
xuống cửa An Giũ hoà ḿnh với đại dương. Lúc bấy giờ, ḍng chảy của
các sông là đường giao thông thuận lợi của cư dân trong vùng.
Thung lũng vùng núi Kim Sơn như cái quạt nan xoè ra với nhiều nan
quạt : Đồng Hâu, Phú Hữu, Phú Ninh, B́nh Sơn, Nghĩa Điền, Đồng Bé,
Đồng Gáo, Đồng Gí, th́ Đồng Quả là điểm hội tụ của những nan quạt ấy.
Tại thung lũng hẻo lánh nầy, ai đem Tin Mừng đến đây ? bằng cách nào
? thế nào ? khi nào ? hiện giờ vẫn chưa t́m được tài liệu nào cho
biết đích xác.
Theo sử liệu của Tỉnh Ḍng Phanxicô Tây Ban Nha, năm 1726, Đức
Cha Francisco Pérez, vị chủ chăn của Giáo phận đă trao ngôi nhà thờ
dâng kính thánh Micae ở Đồng Hâu cho Cha Filipe de la Concepción, vị
thừa sai Phanxicô vừa mới đến Giáo phận. Năm sau, Cha Filipe de la
Concepción trùng tu lại ngôi nhà thờ nầy [1].
Tại sao ngôi nhà thờ nầy được trùng tu ? Có thể ngôi nhà thờ nầy
được xây dựng đă lâu. Thời điểm năm 1726, ngôi nhà thờ nầy đă cũ kỹ,
cần phải trùng tu. Như thế ánh sáng Tin Mừng đă đến vùng thung lũng
Kim Sơn nầy từ trước thời điểm năm 1726. Có thể những tín hữu đầu
tiên ở thung lũng Kim Sơn là các tín hữu từ các vùng lân cận như Gia
Hựu, Bồng Sơn, Thác Đá..., xa hơn như Quảng Nam, Quảng Ngăi, đă theo
đường sông Lại Giang đến đây lập nghiệp. Tục truyền rằng vào thời
Hậu Lê, vùng vúi nầy có vàng như tên gọi của nó là Kim Sơn, vàng ở
Kim Sơn được khai thác để góp phần vào việc triều cống Trung Hoa.
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, vàng đă cạn, dân trong vùng lân cận
t́m đến đây mót vàng, lại có đất bằng, có nước sông, có cá, có đủ
điều kiện sinh sống nên họ đă định cư. Ngược ḍng sông Lại Giang,
các thừa sai đă đến đây thăm viếng, ban các Bí tích cho giáo dân.
Lần theo tiểu sử các thừa sai của Hội Truyền Giáo Nước Ngoài
Paris (MEP), Đức Cha Cuénot đă ẩn trú tại nhà ông Nhơn ở Đồng Hâu
gần một năm trước khi đến và đặt Toà Giám Mục tại G̣ Thị [2]. Sự
kiện đó cho thấy hạt giống đức tin đă lớn, đă sống mạnh tại thung
lũng Kim Sơn hẻo lánh nầy.
Theo thống kê năm 1850 của Đức Cha Cuénot Thể, vùng Bồng Sơn Miền
Núi gồm có [3]:
STT |
GIÁO ĐIỂM |
SỐ GIÁO DÂN |
01 |
Đồng Hâu Đông |
354 |
02 |
Đồng Hâu Tây |
246 |
03 |
Đồng Đỗ |
213 |
04 |
Ngăi Điền |
139 |
05 |
Đồng Quả Nam |
103 |
06 |
Đồng Quả Tây |
81 |
07 |
Đồng Quả Bắc |
64 |
08 |
Đồng Quả Đông |
60 |
09 |
Đồng Quả Hạ |
50 |
10 |
Truông Ổi |
69 |
11 |
Đồng Dài |
233 |
12 |
Đại B́nh |
84 |
13 |
Thác Đá |
331 |
14 |
B́nh Phú |
212 |
15 |
Tây Phú |
134 |
Năm 1872, Cha Jules Vialleton đă được bổ nhiệm đến Đồng Quả . Cha
làm việc tại đây một thời gian ngắn.
Vùng truyền giáo Bồng Sơn Miền Núi đang trên đà phát triển th́
đành chung số phận với vùng truyền giáo Bồng Sơn Miền Biển anh em,
gánh chịu những cuộc bách hại của phong trào Văn Thân .
Các lănh tụ Văn Thân đă đồng loạt bách hại từ Hội Đức, Thác Đá
cho đến Đồng Quả trong cùng một ngày, cùng một cách : Bao vây, đốt
phá nhà thờ, tàn sát các tín hữu.
Tại Đồng Quả Thượng, Cha Trang, các D́ Phước và hầu hết tín hữu
đă bị thiêu trong nhà thờ.
Tổng kết cuộc bách hại nầy :
- Đồng Quả Thượng có 600 tín hữu th́ 580 tín hữu bị sát hại,
trong đó có 45 D́ Phước và khoảng 100 trẻ mồ côi.
- Đồng Quả Hạ có 300 tín hữu, bị sát hại 272 người.
- Đồng Bé có 30 tín hữu, bị sát hại 22 người.
- Nghĩa Điền Thượng có 80 tín hữu, bị sát hại 66 người.
- Nghĩa Điền Hạ có 150 tín hữu, bị sát hại 138 người.
- Đồng Gí có 103 tín hữu, bị sát hại 86 người.
- Đồng Gáo có 120 tín hữu, bị sát hại 116 người.
- Đồng Đỗ có 80 tín hữu, không ai sống sót.
Ông Trùm Cường[4] ở Nghĩa Điền, một trong những người c̣n sống
sót sau cuộc bách hại của Văn Thân đă cho biết lư do tại sao các tín
hữu không vào núi để trốn :“ Trốn trong núi th́ dễ, nhưng một số
đông mà ở lâu cho kín đáo trong làng Thượng tiếp giáp với Annam th́
không thể được. Sớm muộn sẽ bị lộ, sẽ bị chết một cách nào đó, ít ra
là bị làm nô lệ. Chúng tôi không muốn ǵ hơn là được chết với nhau
trong nhà thờ, chúng tôi đă đồng ḷng như thế và đă chuẩn bị sẳn
sàng”. [5]
Quyết tâm sống chết với nhau, nhưng sự quan pḥng khôn ḍ của
Thiên Chúa không để tất cả phải chết. Một số ít ỏi tín hữu c̣n sống
sót phải lang thang ẩn trú trong rừng. Ngày xưa, tiên tri Êlia v́
trung thành với đức tin mà hoàng hậu Izabel đă t́m cách cướp mạng
ông, ông phải chạy trốn, lang thang trong hoang địa. Thiên Chúa cho
Thần sứ mang bánh và nước nuôi sống ông [6]. Bấy giờ các tín hữu
Chúa đang lang thang trong rừng v́ đức tin, Thiên Chúa cũng nuôi
sống họ bằng trái cây, rau củ hoang dại, và bằng ḷng tốt của người
Thượng đă nuôi cơm một ít tín hữu để trông coi nương rẫy cho họ.
Với sự bách hại tàn khốc của Văn Thân, tưởng chừng các giáo điểm
trong vùng thung lũng Kim Sơn đă lụi tàn. Tuy nhiên, ḍng máu đào
của các tín hữu đă thấm vào ḷng đất như hạt giống đă được gieo, chờ
ngày nảy mầm.
Sau hơn một năm ẩn trú, đầu năm 1887, số ít tín hữu c̣n sống đă
lần hồi trở về ổn định cuộc sống với bà con trong xóm làng. Thay v́
trông coi nương rẫy cho người Thượng, giờ đây họ là những người chăm
lo cho cánh đồng lúa mới của Thiên Chúa. Từ năm 1889 cho đến sau năm
1900, hầu hết tất cả các giáo điểm đă bị Văn Thân tàn phá được hồi
sinh với hàng loạt người xin gia nhập Đạo. Những giáo điểm mới được
thành lập như Hội Tĩnh, Phú Ninh, Phú Thạnh ...
CÁC LINH MỤC CHĂM SÓC MỤC VỤ TẠI ĐỒNG
QUẢ SAU PHONG TRÀO VĂN THÂN
1. Cha Phêrô Niên (1887 – 1890)
Cha Phêrô Niên đă có nhiều cảm nghiệm sống đức tin. Cha chào đời
năm 1841 tại Kim Châu, B́nh Định. Khi chiếu chỉ phân sáp của Vua Tự
Đức được ban hành, lúc bấy giờ Cha là Chủng sinh trường Làng Sông bị
giải thể về nhà, Cha hănh diện đón nhận hai bên má ḍng chữ ‘ B́nh
Định tả đạo ’ . Cha thụ phong Linh mục năm 1884. Cha được bổ nhiệm
về Phú Thượng. Cha đă kinh qua những khó khổ trong lúc chống trả Văn
Thân tại Phú Thượng.
Năm 1887, Cha được bổ nhiệm về Đồng Quả. Với tấm ḷng mục tử đă
từng kinh qua những cuộc bách hại đức tin, Cha đồng cảm, đồng hành
với nhóm tín hữu vùng thung lũng Kim Sơn c̣n sống sót sau cuộc bách
hại của Văn Thân. Cha với con đồng cảnh ngộ, đồng t́nh, đồng ḷng
xây dựng cộng đoàn tín hữu trong huynh đệ và hiệp nhất, làm hạt nhân
cho các nhóm tân ṭng trong các giáo điểm.
Năm 1890, Cha được bổ nhiệm về Đồng Dài.
2. Cha Louis Nézeys (1890 – 1894)
Cha Louis Nézeys thụ phong Linh mục ngày 24 tháng 9 năm 1887 tại
Pháp. Cuối năm 1887, Cha đă đến Phan Rang. Tháng 6/1890, Cha được
gọi về Làng Sông. Tháng 9/1890, Cha được bổ nhiệm về Đồng Quả. Cha
Louis Nézeys được bổ nhiệm đến Đồng Quả với tư cách là Cha sở [7] .
Trước thời điểm nầy, Đồng Quả là một giáo điểm thuộc quyền chăm sóc
mục vụ của Cha sở Gia Hựu.
Với sức trẻ, nhiệt t́nh và năng nổ, Cha Louis Nézeys đă tái lập
các nhà nguyện tạm thời tại các giáo điểm, đón nhận và chăm sóc các
dự ṭng. Cha tổ chức khai khẩn đất nhằm tạo kế sinh sống cho giáo
dân, đặc biệt cho những người đă mất ruộng vườn, nhà cửa trong biến
cố Văn Thân. Năm 1891, Cha xây dựng nhà thờ Đồng Quả xinh đẹp, tạo
niềm phấn khởi cho giáo dân và sự thán phục của đồng bào trong vùng.
Số tín hữu gia tăng nhanh chóng. Năm 1890, có 320 tín hữu; năm 1894,
có 1200 tín hữu [8]. Năm 1894, Cha Louis Nézeys được bổ nhiệm làm
quản lư nhà chung.
3. Cha Eugène Durand (1894-1899) [9]
Cha Eugène Durand sinh ngày 20-01-1864, thụ phng Linh mục ngày
26-09-1886. Cha đến làm việc tại Giáo phận vào năm 1887. Năm 1894,
Cha được bổ nhiệm làm việc tại Đồng Quả .
Cha Eugène Durand tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm. Cha chăm
sóc mục vụ các tân ṭng một cách đặc biệt, tạo kế sinh sống, cho ở
gần nhau để có thể giúp nhau trong nhiều công việc. Cha c̣n đào tạo
giảng viên giáo lư và đưa vào ở với các tân ṭng để củng cố thêm
giáo lư cho họ.
Cha Durand đă truy tập hài cốt các tín hữu bị Văn Thân bách hại,
đưa hài cốt về chôn cất tại một nơi gọi là nhà mồ, kề bên nhà thờ
Đồng Quả. Hằng năm, tại nhà mồ nầy, thánh lễ được cử hành vào ngày
lễ kính Bảy sự thương khó Đức Mẹ ( lễ Mẹ Sầu Bi ) để kính nhớ các
tín hữu đă bị sát hại v́ đức tin.
Sau thời gian làm việc cật lực nơi rừng thiêng nước độc, Cha bị
suy nhược. Cha phải đi an dưỡng và sau đó Cha được bổ nhiệm làm việc
ở Phan Rí.
Trong thời gian Cha Durand làm Cha sở Đồng Quả, Cha Phanxicô
Xaviê Hương được bổ nhiệm làm phụ tá cho Cha Durand (1895-1897).
4. Cha Alexis Boivin ( 1899-1904 ; 11/1907-
01/1912)
Cha Alexis Boivin sinh ngày 13-02-1870, thụ phong Linh mục ngày
02-7-1893. Năm 1899, Cha được bổ nhiệm làm việc tại Đồng Quả.
Cha Alexis Boivin có tiếng hiền hậu và rộng lượng. Giáo dân cũng
như lương dân dành cho Cha nhiều cảm t́nh đặc biệt. Năm 1903, số
giáo dân đă lên đến 4.231 người trong 31 giáo điểm. Đầu năm 1904,
Cha Alexis Boivin được bổ nhiệm về Phan Rang. Tháng 11-1907, Cha
được bổ nhiệm về lại Đồng Quả.
Các Cha phụ tá :
- Cha Giuse Trần Nhi (1900-1907)
- Cha Phêrô Yến ( 1901-1904)
5. Cha Joseph Lalanne ( 1904-1907)
Cha Joseph Lalanne thụ phong Linh mục ngày 22-6-1902. Sau khi học
tiếng Việt tại Sông Cát (ngày nay thuộc Giáo xứ Ngọc Thạnh), Cha
Lalanne được bổ nhiệm đến làm việc tại Kỳ Bương. Tháng 10 năm 1904,
Cha được bổ nhiệm làm việc tại Đồng Quả. Năm 1905, Cha Charles
Dorgeville được bổ nhiệm làm phụ tá cho Cha Lalanne. Cha Dorgeville
làm việc tại đây cho đến năm 1908, Cha được bổ nhiệm về Chủng viện
Làng Sông.
Năm 1907, Cha Lalanne được bổ nhiệm làm Giám đốc trường Thầy
Giảng. Cha Boivin về lại Đồng Quả. Trong thời điểm nầy Cha rất khổ
tâm v́ hàng loạt tân ṭng xin bỏ đạo [10] . Theo báo cáo thường niên
năm 1905, Đồng Quả có 4.264 tín hữu, chiếm vị trí đầu tiên của 43 xứ
trong Giáo phận về con số tân ṭng. Năm 1909 chỉ c̣n 1.558 tín hữu.
Sau thời gian làm việc mệt nhọc, tháng 01-1912, Cha Boivin về
Pháp để an dưỡng .
6. Cha Eugène Poyet (1912-1919)
Cha Eugène Poyet chào đời ngày 09 tháng 01 năm 1863, thụ phong
Linh mục ngày 24 tháng 09 năm 1887. Tháng 01-1912, Cha Eugène Poyet
được bổ nhiệm đến Đồng Hâu [11]. Sau hơn 05 năm hăng say làm việc
tại đây, Cha Poyet đă bắt đầu kiệt sức. Ngày 09-05-1919, Cha lên
đường vào Sài G̣n để chuẩn bị về Pháp an dưỡng.
Năm 1914, Gia Chiểu được tách khỏi Thác Đá, nhập về Đồng Quả.
Trong thời gian Cha Poyet làm việc tại Đồng Hâu, Cha được sự cộng
tác của các Cha phụ tá :
- Cha Simon Vơ Thọ (1908 – 1914)
- Cha Marcel Piquet (tháng 4/1914-16) [12]
- Cha Gioakim Nguyễn Lịch (tháng 6/1914-16)
làm việc tại Gia Chiểu.
- Cha Tánh ( 1915 - 1919 )
- Cha Phêrô Chánh ( 8/1916 - .... )
- Cha Phêrô Lê Đức Kính (1919-1929). Cha làm phụ tá biệt lập tại
Đồng Hâu cho tới năm 1929, Cha được bổ nhiệm làm Cha sở Ninh Hoà.
7. Cha Bertrand Etcheberry ( 1919 – 1922 )
Cha Bertrand Etcheberry sinh ngày 25-06-1883, thụ phong Linh mục
ngày 07-07-1907. Sau lễ Phục sinh năm 1919, Cha Etcheberry được bổ
nhiệm làm Cha sở Đồng Quả. Nhà thờ Đồng Quả với tranh tre nứa lá sau
hơn 30 năm sử dụng, nay đă dột nát. Cha Etcheberry khởi công tái
thiết nhà thờ Đồng Quả bằng vật liệu rắn chắc : Gạch, ngói. Cha cũng
xây dựng lại nhà xứ tạm đủ cho Cha sở và Cha phụ tá.
Tháng 8 năm 1922, Cha Etcheberry được bổ nhiệm làm việc ở Phú
Thượng. Thời điểm nầy Đồng Quả có 1.519 tín hữu.
8. Cha F.X. Vĩ (1922-1934)
Cha Vĩ sinh năm 1884 tại Diêm Điền, Tân Dinh; thụ phong Linh mục
năm 1912. Cha Vĩ là Linh mục Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm Cha
sở Đồng Quả. Cha Vĩ tiếp tục hoàn thành nhà thờ Đồng Quả mà vị tiền
nhiệm của ngài đang làm dở dang.
Năm 1929, Cha tái thiết nhà thờ Đồng Hâu. Nhà thờ Đồng Quả Hạ
được tái thiết và khánh thành ngày 18-7-1929. Thời điểm nầy, Đồng
Quả có 1.669 tín hữu trong 11 giáo họ.[13]
Năm 1934 Cha được bổ nhiệm về G̣ Thị.
Trong 12 năm làm việc xóc vác tại Đồng Quả, sức lực phương phi
của Cha cũng phải hao ṃn theo năm tháng. Khí hậu miền sơn cước đă
cấy nơi thân xác của Cha mầm bệnh sốt rét rừng. Chính căn bệnh nầy
đă cắt đứt hơi thở của Cha vào ngày 20 tháng 03 năm 1941 tại Làng
Sông.
Năm 1929, Cha Kính đi Ninh Hoà, Cha Gioan Suất được bổ nhiệm làm
phụ tá Đồng Quả.
9. Cha Phêrô Nguyễn Đức Tín (1934-1938)
Cha Phêrô Nguyễn Đức Tín chào đời năm 1898 tại Trà Kiệu, Quảng
Nam. Năm 1919, Cha được du học tại Roma, thụ phong Linh mục tại Roma
năm 1925. Năm 1934, Cha được bổ nhiệm làm Cha sở Đồng Quả. Năm 1938,
Cha được bổ nhiệm làm giáo sư Đại Chủng Viện Quy Nhơn.
10. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đức Quảng
(1938-1942).
Năm 1939, Đồng Hâu, G̣ Dê, Gia Chiểu được tách khỏi Đồng Quả lập
thành Giáo xứ Gia Chiểu. Cùng năm nầy, Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan
được bổ nhiệm làm phụ tá Cha sở Đồng Quả, năm 1940 Cha Đoan được bổ
nhiệm làm phụ tá Cha sở Tuy Hoà.
12. Cha Giuse Lê Văn Ly (1942-1950)
13. Cha Alexis Lê Trung Hậu (1951-1954)
14. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đức Quảng,
Cha sở Gia Chiểu kiêm nhiệm Đồng Quả (1955-1956)
15. Cha Antôn Hoàng Liên Mầu ( 1956 –1957)
16. Cha Anrê Nguyễn Hoàng Nhu ( 1957-1964 )
Khi Cha Anrê Nguyễn Hoàng Nhu được bổ nhiệm đến Đồng Quả, nhà thờ
Đồng Quả đă hư hao sau hơn 30 năm sử dụng. Cha Nhu làm lại nhà thờ
mới rộng thoáng hơn.
Năm 1964, t́nh h́nh an ninh trong vùng không ổn định. Tháng 10
năm 1964, Cha Nhu và một số đông giáo dân di cư vào Quy Nhơn. Trong
thời điểm chiến tranh xảy ra ác liệt trong vùng, toàn bộ giáo dân đă
di cư đi nơi khác, nhà thờ bị bom đánh sập.
T̀NH H̀NH GIÁO XỨ TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
Năm 1975, chiến tranh chấm dứt, một số ít giáo dân đă hồi cư. Bom
đạn cùng với thời gian hoang phế đă tàn phá toàn bộ cơ sở vật chất
của Giáo xứ . T́nh h́nh xă hội sau năm 1975 không cho phép các Linh
mục hiện diện tại Đồng Quả. Số giáo dân đă hồi cư phải đến nhà thờ
Đại B́nh để cử hành và lănh nhận các bí tích. Hiện nay[14] Đồng Quả
có 924 giáo dân trong 06 giáo họ do Cha sở Đại B́nh chăm sóc mục vụ
:
STT
|
GIÁO HỌ |
ĐỊA CHỈ |
GIÁO DÂN |
NHÀ THỜ |
BỔN MẠNG |
01 |
Ngăi Điền |
Ngăi Điền, Ân Nghĩa, Hoài Ân |
333 |
Không c̣n |
Thánh Giuse |
02 |
Phú Trị |
Phú Trị, Ân Nghĩa, Hoài Ân |
100 |
Không có |
|
03 |
Đồng Quả |
Kim Sơn, Ân Nghĩa, Hoài Ân |
102 |
C̣n nền |
Mẹ Lên Trời |
04 |
Đồng Quả Hạ |
Phú Hữu, Ân Tường Tây,
Hoài Ân |
285 |
C̣n nền |
Mẹ Vô Nhiễm |
05 |
Hội Tĩnh |
Liên Hội, Ân Hữu, Hoài Ân |
70 |
C̣n nền |
Thánh F.X. |
06 |
Đồng Gí |
Hội Văn, Ân Hữu, Hoài Ân |
34 |
Không có |
|
III. LINH MỤC-TU SĨ XUẤT THÂN TỪ GIÁO XỨ
1. Cha Simon Nguyễn Kim Ngọc
Sinh năm 1911 tại Đồng Quả Hạ ( Phú Hữu); Thụ phong Linh mục năm
1941; Chết năm 1979 tại Hoa Kỳ.
2. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội
Sinh ngày 15-08-1916 tại Kim Sơn; Thụ phong Linh mục ngày
15-04-1945; Chết năm 1984 tại Bồng Sơn.
3. Cha Simon Huỳnh Tấn Công
Sinh ngày 19-09-1919 tại Ngăi Điền; Thụ phong Linh mục ngày
17-05-1955; Chết ngày 17-08-2003 tại Quy Nhơn.
4. Cha Phaolô Nguyễn Thanh B́nh
Sinh ngày 07-10-1920 tại Kim Sơn; Thụ phong Linh mục ngày
03-08-1953; Chết ngày 07-03-2007 tại Quy Nhơn.
5. Cha Giuse Nguyễn Đ́nh Bút
Sinh ngày 18-04-1970, tại Đồng Tre, Phú Yên. Nguyên quán Kim Sơn;
thụ phong Linh mục ngày 04-03-2005.
6. Nữ tu Brigitte Nguyễn Thị Trọn
Sinh năm 1932 tại Kim Sơn; khấn trọn đời trong Ḍng Mến Thánh Giá
Quy Nhơn năm 1962.
IV. KẾT
Ngày nay tại giáo xứ Đồng Quả không có nhà thờ bằng gỗ đá, mỗi
tâm hồn tín hữu là một ngôi đền thờ phượng. Sự hiện diện thường
xuyên của Linh mục trên vùng đất nầy đang là một nhu cầu bức thiết.
Lạy Chúa Giêsu, xin hăy đến.
[1] Marie-Antoine Trần Phổ Ofm. Tỉnh Ḍng Anh Em Hèn Mọn Việt
Nam,lược khảo lịch sử, trang 92.
[2] A. Tardieu, Hạnh Đức Cha Thể, Imp. Làng Sông 1907, p. 28.
[3] Mm. No.57, 9/1909, p. 151-152.
[4] Ông cố ngoại của Cha Simon Huỳnh Tấn Công.
[5] Compte – Rendu 1941,
[6] 1Reg. 9,1-8.
[7] Mgr. Van Camelbecke, Rapport de 1890.
[8] Mgr.Van Camelbeke, Rapport de 1891.
[9] Trong tiểu sử của Cha Durand không thấy nhắc đến thời gian
ngài làm việc tại Đồng Quả. Tuy nhiên căn cứ vào các Rapport hằng
năm của Đức Cha Van Camelbeke , chúng ta biết được ngài đă làm việc
tại Đồng Quả trong thời điểm 1894-1899.
[10] Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1908, một số sĩ phu khơi dậy
một phong trào quần chúng. Phong trào nầy kêu gọi đồng bào biểu t́nh
ôn hoà xin chính quyền bảo hộ giảm thuế. Tại B́nh Định, tiến sĩ Hồ
Sĩ Tạo, người làng Hoà Cư, An Nhơn, đă lănh đạo phong trào nầy. Các
tân ṭng sợ phong trào nầy sẽ thành ‘Văn thân’ thứ hai tàn sát tín
hữu nên xin bỏ đạo hàng loạt.
[11] Đồng Hâu và Đồng Quả là hai giáo điểm thuộc vùng thung lũng
Kim Sơn được các Cha chọn làm cư sở tuỳ theo thời điểm. Trong các
thống kê hằng năm, từ năm 1907 đến năm 1919 th́ Đồng Hâu là giáo
điểm được các Cha chọn làm cư sở. Từ năm 1920 cho đến lúc di cư th́
Đồng Quả là cư sở.
[12] Ngày 11-11-1943, được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Quy
Nhơn.
[13] Mm. 7/1929, p. 46.
[14] Cuối năm 2005.
Tác giả bài viết: Lm. Gioan Vơ Đ́nh Đệ
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|