|

Lược
sử Giáo xứ Ghềnh Ráng
I. VỊ TRÍ
Địa bàn giáo xứ Ghềnh Ráng hiện nay (2018) gồm các khu vực III,
IV, V của phường Ghềnh Ráng và phần phía Nam đường Chương Dương của
phường Nguyễn Văn Cừ, thành phố Qui Nhơn.[1] Phía Bắc giáp giáo xứ
Qui Hiệp và giáo xứ Xuân Quang, phía Nam giáp giáo xứ Qui Hoà, phía
Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp núi Vũng Chua.
Nhà thờ Ghềnh Ráng tọa lạc tại số 21 đường Tây Sơn thành phố Qui
Nhơn.

II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ
1. Giai đoạn h́nh thành
Vào khoảng giữa thế kỷ XX, vùng Ghềnh Ráng là một làng thuyền
chài khoảng trên dưới 40 nóc nhà tranh thuộc thôn Xuân Vân,[2] xă
Phước Tấn, huyện Tuy Phước. Thôn Xuân Vân được sáp nhập vào thị xă
Qui Nhơn theo Nghị định số 594, ngày 12 tháng 10 năm 1961 của chính
quyền đương thời.
Năm 1958, cha Giuse-Maria Phạm Châu Diên, gốc Bùi Chu, giáo sư
dạy lớp tu muộn do Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục Qui
Nhơn, qui tụ tại Đại Chủng viện Qui Nhơn, nay là cơ sở thư viện của
Đại học Qui Nhơn, cách Ghềnh Ráng hơn 1 cây số, thường xuyên đến đây
thăm viếng dân làng và truyền giáo, như cha tường thuật :“...việc
đầu tiên phải làm là lập một giáo họ tại đây. Thôn Xuân Vân, lèo tèo
ba bốn chục nóc nhà tranh rải rác dưới chân núi, ăn ra tới lợi biển.
Cư dân phần nhiều là người nghèo nàn chất phác, lên rừng kiếm củi,
xuống biển ṃ cua, ra thành làm việc. Cả thôn chỉ có một gia đ́nh
Công giáo gồm một mẹ một con. Nghe nói trước kia, Cố Hồng, người
Pháp đă truyền giáo tại đây công phu nhiều nhưng kết quả không được
là bao.
Sau khi nghiên cứu t́nh h́nh, tôi bàn với ông xă trưởng Phước Tấn,
lập trường sơ học miễn phí. Cô giáo Lê Vân có tư cách, có học thức
đă gây được uy tín cho nhà trường. Trẻ em thất học kéo đến rất đông.
Về văn hoá như vậy là tạm ổn.
Về mặt xă hội, dân chúng quá nghèo, ông già bà cả không ai giúp
đỡ. Tôi liền vận động Hội Bác Ái Vinh Sơn Qui Nhơn, mà tôi là tuyên
uư, đến hoạt động. Mấy người già yếu được cấp dưỡng thường xuyên.
Dịp Tết, dịp lễ, các học sinh được tặng quà, các gia đ́nh được uỷ
lạo.
Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa đá động ǵ đến việc ṭng giáo. Nhân
dịp tết sắp tới, ba người đàn ông đứng tuổi đến thăm tôi và xin theo
đạo, cùng với cả gia đ́nh.
May thay, một thanh niên Công giáo, anh Nguyễn Ngọc Long, mới về
thuê nhà ở trong thôn. Tôi liền mượn nhà anh làm pḥng họp và giao
cho anh dạy giáo lư cho chừng ba chục người lớn. Lớp học xem có vẻ
hào hứng lắm. C̣n trẻ nhỏ, th́ cô giáo Lê Vân phụ trách.
Sáng Chúa nhật, mồng hai Tết 1958, có cuộc rước tượng Đức Mẹ từ
đầu thôn về nhà anh Long, được dùng làm nhà nguyện lâm thời và cử
hành thánh lễ. Từ đó tôi ra làm lễ các ngày Chúa nhật.
Thấy nhà nguyện lâm thời chật chội, họ họp nhau đến xin tôi cất
nhà thờ. Lên rừng Vân Canh, cách Qui Nhơn chừng 30 km, họ chặt cây,
cắt tranh chở về một đống. Trên một khu đất cao ráo đẹp đẽ, quay ra
biển, họ hí hoáy cất một ngôi nhà 4m x 10m. Ai xem thấy cũng phải
thương hại. Cột cù quăm, kèo cù quắp, mái tranh ḷng tḥng. Chúng
tôi đă tưởng làm vách đất, th́ có mấy nhà hảo tâm Qui Nhơn giúp
phương tiện xây tường gạch, đặt cửa sổ, vào áo đường hoàng. Tiền
đường theo kiểu Đông Phương, mái cong cân đối. Bàn thờ h́nh thức Tam
sơn, nét giữa là nhà chầu, hai nét cạnh vẽ hai con cá, biểu tượng
Chúa Kitô và cũng là biểu tượng nghề chài của dân Chúa.[3]
Sau đó chúng tôi rửa tội lớp đầu tiên được 30 người. Bấy giờ mới
phát giác một chị 35 tuổi đă rửa tội từ bế ngửa, nhưng không giữ đạo
bao giờ. Hỏi ra th́ cha mẹ chị khó nuôi con, sinh đứa nào chết đứa
nấy, nên đă theo người ta bày mà cho con đi đạo để được sống”.[4]
Năm 1962, cha Giuse Phạm Châu Diên làm tuyên uư cho các Sư huynh
Lasan tại trường Trung học Lasan. Trường này là cơ sở Đại Chủng viện
Qui Nhơn được Giáo phận giao cho các sư huynh Lasan sử dụng 10 năm
(1962-1972). Cha Giuse Phạm Châu Diên vẫn tiếp tục đặc trách mục vụ
giáo họ Ghềnh Ráng mà cha đă dày công gầy dựng.
Ngày 11 tháng 02 năm 1963, cha Diên đă khởi công xây dựng hang đá
Đức Mẹ ở sườn núi Xuân Vân, đối diện với nhà thờ vừa mới thành lập.
Sau đó, cha tiếp tục xây một ngôi nhà thờ nhỏ bên cạnh hang đá, bằng
bêtông cốt thép, lợp ngói, diện tích 70m2, thường gọi là nhà thờ Núi,
nay là Trung Tâm Thánh Thể và Thánh Mẫu của Giáo phận. Công tŕnh
được khánh thành ngày 15 tháng 08 năm 1964. Ngày 22 tháng 08 năm
1964, cha Phạm Châu Diên lên đường về Sài G̣n để dưỡng bệnh, sau đó
cha ở lại tại Sài G̣n và đă yên nghỉ trong Chúa ngày 14 tháng 08 năm
2007.
2. Thành lập giáo xứ
Từ tháng 09 năm 1964, v́ áp lực chiến tranh, nhiều giáo dân từ
các miền quê di tản về Qui Nhơn tị nạn. Cha Mactinô Nguyễn Hộ, cha
sở Nước Nhỉ, dẫn giáo dân Nước Nhỉ về lập trại tạm cư tại Ghềnh Ráng.
Từ đó, giáo dân từ các giáo xứ khác như: Gia Chiểu, Đồng Quả, Đồng
Dài, Thác Đá, Đại B́nh, Đại An, G̣ Thị, Nam B́nh cũng về đây làm
thành một họ đạo lớn có lúc lên tới 4.000 giáo dân.
Năm 1965, v́ số giáo dân tăng nhanh, cha Giuse Nguyễn Sồ, Giám
đốc Caritas Giáo phận, dựng cho họ một nhà tiền chế khá rộng (8m x
41m), vách xây táp lô, mái lợp tôn, vừa làm nhà thờ (264m2), vừa làm
pḥng cha sở ở (64m2).
Mặc dù đến nay chưa t́m thấy văn bản thành lập địa sở Ghềnh Ráng
nhưng có thể suy đoán: họ đạo Ghềnh Ráng được trở thành địa sở Ghềnh
ráng vào năm 1965 v́: trong “Lịch Công Giáo Địa Phận Qui Nhơn-Đà
Nẵng” năm 1966, ở phần tổng kết số liệu của Hạt Qui Nhơn cuối năm
1964, chưa thấy có tên địa sở Ghềnh Ráng. “Lịch Công Giáo Địa Phận
Qui Nhơn-Đà Nẵng” năm 1967, phần tổng kết số liệu cuối năm 1965 có
ghi tên địa sở Ghềnh Ráng với linh mục phụ trách là Nguyễn Hộ, số
giáo dân: 2.112 người.
Trong năm nầy, tại Ghềnh Ráng đă có các cơ sở của Giáo phận: Cô
nhi viện, Nhà dưỡng lăo, Trường tiểu học với diện tích 80m2 gồm 2
pḥng học do các sư huynh ḍng Lasan đảm nhận, Trung tâm Hướng
nghiệp, Tập viện Ḍng Mến Thánh Giá Qui Nhơn. Ngày 08 đến ngày 12
tháng 06 năm 1967, đại hội Công giáo tiến hành được tổ chức tại
Trung tâm Hướng nghiệp Ghềnh Ráng gồm các đoàn thể: Chức việc, Legio
Mariae, Hiệp hội Thánh Mẫu, Thanh sinh công, Hướng đạo Công giáo.
Tháng 09 năm 1974, cha Mactinô Nguyễn Hộ về hưu dưỡng tại Toà
Giám mục. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội, nguyên là cha sở Qui Hải (Lasan),
được bổ nhiệm làm cha sở Ghềnh Ráng.
Cuộc chiến tranh đầu năm 1975, cha sở cùng đa số giáo dân di tản.
Phần lớn giáo dân di tản vào Cam Ranh, số khác vào Xuân Lộc, Vũng
Tàu, Sài G̣n.
Trước tháng 04 năm 1975 số giáo dân Ghềnh Ráng là 2.774 người.
Sau thời gian di tản, số giáo dân trở về chỉ c̣n 775 người, đa số ở
lại những nơi mới đến hoặc trở về quê cũ. Sau ngày 30 tháng 04 năm
1975, cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội được bổ nhiệm làm cha sở Bồng Sơn,
kiêm Hội Đức.
Cha Gioakim Đoàn Kim Hiền trước kia đă dẫn giáo dân giáo xứ Tân
Lộc, giáo hạt Quảng Ngăi, di cư vào Giáo phận Xuân Lộc và lập nên
giáo xứ Tân Ngăi, sau năm 1975 cha trở về Qui Nhơn, được bổ nhiệm
làm cha sở Ghềnh Ráng và đă nhận sở ngày 23 tháng 05 năm 1975. Cha
Hiền rất quan tâm lo việc đạo đức cho giáo dân. Chính cha trực tiếp
dạy giáo lư, kinh nghĩa cho thanh thiếu niên, nhất là các lớp lớn.
Cộng tác với cha trong công tác huấn giáo, có các nữ tu Ḍng Mến
Thánh Giá Qui Nhơn và một số giảng viên giáo lư.
Cha đă ra sức củng cố đời sống đức tin cho đoàn chiên sau chiến
tranh với nhiều vất vả. Về phương diện cơ sở vật chất, sau một thời
gian miệt mài tích góp, cha đă xây dựng nhà thờ (25m x 16m, năm
1997), nhà giáo lư (năm 2001), nhà xứ (100 m2, một trệt một lầu, năm
2003), và bờ tường, cổng ngơ (năm 2003).
Sau 37 năm hết t́nh với giáo xứ Ghềnh Ráng, ngày 18 tháng 05 năm
2012, trước mặt Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, cha Hiền bàn giao giáo xứ
Ghềnh Ráng cho cha Giacôbê Đặng Công Anh và về nghỉ dưỡng tại nhà
hưu các linh mục của Giáo phận. Cha Anh nguyên là cha sở Qui Hiệp,
được Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn bổ nhiệm làm cha sở Ghềnh Ráng. Văn
thư bổ nhiệm được kư ngày 14 tháng 05 năm 2012.
Năm 2016, cha Giacôbê Đặng Công Anh được bổ nhiệm làm cha sở
Quảng Ngăi. Ngày 05 tháng 07 năm 2016, cha Phêrô Lê Nho Phú, nguyên
là cha sở giáo xứ Sông Cầu, được Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi bổ
nhiệm làm cha sở Ghềnh Ráng cho đến nay.
3. Các cha sở
Giáo xứ Ghềnh Ráng từ khi là địa sở (1965) đến nay (2018) có 5
cha sở:
1. Cha Martinô Nguyễn Hộ (1965-1974).
2. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội (1974-1975).
3. Cha Gioakim Đoàn Kim Hiền (1975-2012).
4. Cha Giacôbê Đặng Công Anh (2012-2016).
5. Cha Phêrô Lê Nho Phú (2016- ...).
.........................
[1] Vùng núi tại Gành Ráng có tên là Nhạn Châu Lănh. Tên gọi Gành
Ráng phát xuất từ kinh nghiệm đi biển của ngư dân; Người đi biển có
4 hiệu lệnh lái thuyền:
Cay: Cho thuyền từ phải qua trái.
Biết: Cho thuyền từ trái qua phải.
Nhượng: Xoay mũi thuyền theo đầu gió.
Ráng: Đổ gió trong buồm ra, xoay mũi theo cuối chiều gió. Thuyền
qua Gành nầy th́ phải đổ gió nên gọi là Gành Ráng. (Quách Tấn, Nước
non B́nh Định, tr.203).
Gành Ráng là tên gọi được dùng trước 1975 trong xă hội cũng như
trong Giáo phận. Hiện nay tên gọi Ghềnh Ráng được dùng thay cho tên
gọi Gành Ráng. Ở đây xin được dùng tên gọi Ghềnh Ráng thống nhất
trong các giai đoạn lịch sử, trừ các tài liệu trích dẫn.
[2] Tên gọi Xuân Vân được cha Giuse Phạm Châu Diên giải thích
trong “Hồi kư đời tôi” của ngài, trang 111: “Về mùa Xuân, một đôi
khi, mây thấp đậu lại ngọn núi, trông thật mơ mộng, v́ thế tiền nhân
gọi nó là Xuân Vân”
[3] Nhà thờ nầy được sử dụng cho đến năm 1965. Sau đó dùng làm
lớp học. Sau năm 1975, dân chúng đă làm nhà ở.
[4] PHẠM CHÂU DIÊN, Hồi kư đời tôi, tr. 112-113.
Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận (6/5/2018)
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

|
|