
Lược
sử Giáo xứ Hội Đức
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ :
Địa bàn mục vụ giáo xứ Hội Đức bao gồm các xă thuộc huyện Hoài
Nhơn : Hoài Tân, Hoài Xuân, Hoài Thanh và Bồng Sơn. Phía Bắc giáp
Tam Quan, phía nam giáp Hoài Đức, phía Tây giáp núi Cự Nghi, phía
Đông giáp biển. Trung tâm sinh hoạt của Giáo xứ là nhà thờ Hội Đức,
c̣n gọi là nhà thờ Dốc. Sở dĩ gọi là nhà thờ Dốc v́ nhà thờ tọa lạc
trên đỉnh dốc quốc lộ I, thuộc thôn Gia Hội, xă Hoài Tân. Từ hướng
Bắc vô Nam, nhà thờ ở phía bên phải quốc lộ I.
II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ :
Vùng đất thuộc giáo xứ Hội Đức là một vùng đất trù phú, có nhiều
sản phẩm của rẫy rừng, của ruộng đồng và biển cả. Khí hậu tương đối
mát và trong lành, nhất là vùng phía Đông như Mỹ Thọ, Vạn.
Trong lịch sử loan báo Tin Mừng của Giáo phận Qui Nhơn, Hội Đức
nguyên là một giáo điểm truyền giáo thuộc giáo xứ Gia Hựu. Trong báo
cáo năm 1890 của Đức Cha Van Camelbecke cho biết ba cộng đoàn mới đă
được thiết lập trên cánh đồng Phú Trăng [1] và các vùng lân cận đó
là : Hội Đức, An Dưỡng và Tài Lương [2]. Thời điểm nầy, cha François
Marie Geffroy ( Cố Bửu ) đang làm cha sở Gia Hựu.
Năm 1901, Cha Jean Baptiste Solvignon ( Cố Lành ) được bổ nhiệm
làm phó xứ Gia Hựu, biệt lập tại Hội Đức. Năm 1902, Cha Jean
Baptiste Solvignon được bổ nhiệm làm cha sở Lệ Sơn, Quảng Nam.
Ngày 21 tháng 3 năm 1902, Cha Pierre Marie Le Darré ( Cố Châu )
được bổ nhiệm đến thay thế cha Jean Baptiste Solvignon. Năm 1903,
cha Pierre Marie Le Darré được bổ nhiệm làm cha sở Hội Đức. Từ thời
điểm nầy, Hội Đức là một giáo xứ có cha sở thường xuyên chăm sóc mục
vụ.
1. Cha Pierre Marie Le Darré (1903-1906)
Cha Pierre Marie Le Darré sinh ngày 30 tháng 10 năm 1876 tại giáo
xứ St. Martin, giáo phận Quimper, nước Pháp. Thụ phong linh mục ngày
23 tháng 6 năm 1901. Sau khi thụ phong linh mục, cha được bổ nhiệm
làm việc tại giáo phận Đông Đàng Trong. Ngày 13 tháng 11 năm 1901,
cha lên đường nhận nhiệm sở. Cha học tiếng Việt tại Xóm Quán, thuộc
giáo xứ Tân Dinh ngày nay. Năm 1903, cha nhận nhiệm sở Hội Đức.
Cha Le Darré xây dựng nhà thờ Hội Đức và đặt một quả chuông lớn
có ghi ḍng kỷ niệm sự kiện các kitô hữu đă bị Văn Thân sát hại tại
cánh đồng Phú Trăng năm 1885[3]. Khi nhà thờ hoàn thành, Mẹ Maria
được chọn làm bổn mạng của giáo xứ với tước hiệu Nữ Vương Các Thánh
Tử Đạo, thánh lễ bổn mạng được cử hành vào ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi,
ngày 15 tháng 9 hằng năm.
Theo sổ Hôn phối của giáo xứ Hội Đức đuợc lưu trữ tại Ṭa Giám
Mục Qui Nhơn, đôi hôn phối đầu tiên được cha Le Darré chứng hôn tại
nhà thờ Trung Yên vào ngày 14 tháng 11 năm 1903 với chữ kư cha sở
Hội Đức. Đôi hôn phối thứ hai được cha Le Darré chứng hôn tại nhà
thờ Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Hội Đức vào ngày 28 tháng 11 năm 1903.
Theo sổ Hôn phối nầy, chúng ta biết được các nhà thờ giáo họ thuộc
giáo xứ Hội Đức trong thời điểm 1903 đến 1906: Trung Yên, Thế Lại,
An Dưỡng, An Dinh, Bàu Lác, Đệ Đức, Tân Đức, Thuận Ḥa, An Ḥa, Mỹ
Thọ.
2. Cha Charles Vallet ( 1906-1909 )
Sau thời gian làm việc mệt nhọc, tháng 10 năm 1906, cha Le Darré
phải đi dưỡng bệnh ở Hồng Kông. Cha Charles Vallet được bổ nhiệm đến
thay cho cha Le Darré. Cha Charles Vallet làm cha sở Hội Đức cho đến
năm 1909.
3. Cha Augustin Tardieu (1909-1916)
Tháng 7 năm 1909, cha Augustin Tardieu được bổ nhiệm làm cha sở
Hội Đức. Cha Augustin Tardieu thông minh và năng nổ củng cố cộng
đoàn sau cuộc khủng hoảng chung trong các giáo xứ Bắc B́nh Định. Từ
năm 1906 đến năm 1908, các tân ṭng xuất giáo hàng loạt v́ sợ có thể
xảy ra một cuộc bách hại như cuộc bách hại của Văn Thân vào năm
1885.
Cha Augustin Tardieu thăm viếng, qui tụ, an ủi các tín hữu. Cha
xây dựng trường học, qui tụ con em đến trường. Đây là một trong
những trường đầu tiên được thiết lập nhằm phát triển dân trí trong
giáo phận. Thống kê năm 1916, giáo xứ Hội Đức có 892 tín hữu trong
15 giáo họ [4]. Trong thời điểm cha Augustin Tardieu làm cha sở Hội
Đức, có các cha phụ tá : Cha Anrê Cậy ( 1910 ); cha Phêrô Nguyễn
Chánh ( 1912-1915 ).
4. Cha Matthêu Nhuận ( 1916-1927 )
5. Cha Toma Nguyễn Đức Luận ( 10/1927-7/1928)
6. Cha Jean François Porcher ( 7/1928-10/7/1933)
Cơn băo đêm 16 tháng 10 năm 1932 đă gây nhiều thiệt hại cho cư
dân trong vùng và các cơ sở vật chất của giáo xứ. Nhà thờ Hội Đức đă
được cha Porcher xây dựng lại từ đống đỗ nát. Ngày 25 tháng 5 năm
1933, Đức Cha Augustin Tardieu, cựu cha sở Hội Đức đă cử hành Lễ
khánh thành nhà thờ.
Đang hết sức hết ḷng phục vụ đoàn chiên, th́nh ĺnh trong đêm
ngày 9 rạng sáng ngày 10 tháng 7 năm 1933, cha Jean François Porcher
bị xuất huyết đường ruột, bác sĩ từ Bồng Sơn đến chăm sóc nhưng
không qua khỏi. Cha Jean François Porcher đă trút hơi thở cuối cùng
vào lúc 18 giờ 30 ngày 10 tháng 7 năm 1933. Thánh lễ an táng được cử
hành lúc 17 giờ ngày 11 tháng 7 năm 1933. Thi hài của cha Jean
François Porcher được an táng tại cung thánh nhà thờ Hội Đức [5].
7. Cha Phêrô Nh́ ( 1933-1943)
Cha Phêrô Nh́ sinh năm 1883 tại Sông Cát, giáo xứ Làng Sông, thụ
phong linh mục năm 1913. Cha được bổ nhiệm làm cha sở Hội Đức thay
cho cha Porcher vừa mới qua đời. Thời điểm cha Phêrô Nh́ làm cha sở
Hội Đức, giáo xứ Hội Đức có 1.220 tín hữu trong16 giáo họ : Hội Đức
( 186 ); Ḥa Trung ( 43 ); Tân Đức ( 93 ); An Dưỡng ( 53 ); Tài
Lương Đông ( 80 ); Tài Lương Tây ( 70 ); An Lương ( 27 ); Tấn Thạnh
( 43 ); Tăng Long ( 47 ); Lâm Trước ( 09 ); Trường An ( 14 ); Thiện
Đức ( 21 ); Cự Nghi ( 07 ); Ngọc An ( 135 ); Vạn ( 47 ); Mỹ Thọ (
334 ) [6].
8. Cha Gioan Bt. Nguyễn Đức Quảng ( 1943-1952 )
Khi Cha Phêrô Nh́ được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Dài, cha Gioan
Bt. Nguyễn Đức Quảng được bổ nhiệm làm cha sở Hội Đức.
9. Cha Antôn Hồ Ngọc Hạnh ( 1952-1957 )
Cha Hạnh xây dựng nhà xứ Hội Đức tân kỳ và khang trang.
10. Cha Alexis Lê Trung Hậu ( 1957-1958 )
11. Cha Gioakim Đoàn Kim Hiền ( 1958-1960 )
12. Cha Phêrô Trịnh Hoài Ân ( 1960-1963 )
Có cha Micae Ngô Trung Lành phụ tá biệt lập ở Mỹ Thọ và các sư
huynh Ḍng Thánh Giuse giúp mục vụ tại Mỹ Thọ.
13. Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa ( 1963- 1970 )
Thời điểm chiến tranh ác liệt xảy ra, giáo dân di cư dần dần. Cha
Gioakim Huỳnh Văn Hóa dời cư sở đến Bồng Sơn. Khi làm cha sở Hội Đức,
cha Gioakim Đoàn Kim Hiền đă xây một nhà đa dụng tại cư sở Bồng Sơn.
Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa xây dựng trường trung học Thánh Mẫu tại
Bồng Sơn. Trong lúc chiến tranh, cha Micae Ngô Trung Lành, Cha Tôma
Bùi Đức cùng làm việc mục vụ với cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa. Năm
1967, cha Micae Ngô Trung Lành được bổ nhiệm làm cha sở Xuân Quang.
Năm 1970, Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa được bổ nhiệm làm cha sở Nam
B́nh. Tháng 10 năm 1965, Nhà thờ Hội Đức đă bị đạn cannon và nhà xứ
Hội Đức trở thành hoang phế v́ chiến tranh không có người chăm sóc.
Khi làm cha sở Hội Đức, Cha Gioakim Đoàn Kim Hiền đă xây một nhà
đa dụng tại Bồng Sơn. Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa xây dựng trường
trung học Thánh Mẫu tại Bồng Sơn.
Tháng 10 năm 1965, Nhà thờ Hội Đức bị đạn cannon. Cha Gioakim
Huỳnh Văn Hóa dời cư sở đến Bồng Sơn.
Cuối năm 1964, cha Tôma Bùi Đức đang làm việc ở Trung Tín, Quảng
Ngăi di cư về ở Bồng Sơn. Cuối năm 1965, Cha Micae Ngô Trung Lành
đang làm việc tại Mỹ Thọ cũng di cư về Bồng Sơn. Cả hai cha cùng làm
việc mục vụ với cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa tại Bồng Sơn. Lúc bấy giờ,
giáo dân giáo xứ Hội Đức cũng như các giáo xứ trong vùng như Đồng
Quả, Gia Chiểu, Đồng Dài di cư tản mát đó đây, một số tập trung về
Bồng Sơn, một số di cư vào phía Nam.
Năm 1967, cha Micae Ngô Trung Lành được bổ nhiệm làm cha sở Xuân
Quang. Năm 1970, Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa được bổ nhiệm làm cha sở
Nam B́nh.
14. Khi Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa được bổ nhiệm làm cha sở Nam
B́nh. Cha Tôma Bùi Đức làm cha sở Hội Đức, ở tại Bồng Sơn (1970-
1971). Cuối năm 1971, cha Tôma được bổ nhiệm làm cha sở Xuân Quang.
15. Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu, ở tại Bồng Sơn (1972-1975)
16. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội, ở tại Bồng Sơn (1975-1984).
Như vậy, trong thời gian từ năm 1965 đến năm 1984, các thời cha
sở Hội Đức đều ở tại Bồng Sơn. Toàn bộ cơ sở vật chất tại Hội Đức đă
bị chiến tranh tàn phá b́nh địa. Sau khi cha Hội qua đời tại Bồng
Sơn (năm 1984), Nhà nước trưng dụng toàn bộ cơ sở vật chất của giáo
xứ tại Bồng Sơn để mở rộng bệnh viện Đa khoa khu vực Bồng Sơn.
Trong thời gian chiến tranh, giáo dân giáo xứ Hội Đức cũng như
các giáo xứ trong vùng như Đồng Quả, Gia Chiểu, Đồng Dài di cư tản
mát đó đây, một số ít tập trung về Bồng Sơn, phần lớn di cư vào phía
Nam.
III. GIÁO XỨ HỘI ĐỨC TỪ 30-04-1975 ĐẾN NAY
Trong chiến tranh giáo dân Hội Đức ly tán. Sau khi ḥa b́nh văn
hồi, nhiều gia đ́nh đă ổn định đời sống nơi vùng đất mới, một số ít
giáo dân hồi cư về quê hương. Các cơ sở vật chất của giáo xứ Hội Đức
và các giáo họ đă bị chiến tranh tàn phá. Thống kê cuối năm 2011 sau
đây cho thấy hiện t́nh của giáo xứ Hội Đức :
STT |
GIÁO HỌ |
ĐỊA CHỈ |
HIỆN T̀NH GIÁO DÂN |
NHÀ THỜ |
GIA Đ̀NH |
GIÁO DÂN |
01 |
Hội Đức |
Gia Hội, Hoài Tân |
54 |
197 |
C̣n nền |
02 |
Tân Đức |
Đệ Đức, Hoài Tân |
25 |
94 |
C̣n nền |
03 |
An Dưỡng |
An Dưỡng, Hoài Tân |
18 |
81 |
C̣n tường |
04 |
Hoài Trung |
Hoài Trung, Hoài Xuân |
04 |
18 |
B́nh địa |
05 |
Ngọc An |
Ngọc An, Hoài Thanh Tây |
07 |
29 |
C̣n nền |
06 |
Trung Lương |
Trung Lương, Bồng Sơn |
13 |
45 |
C̣n nền |
07 |
Trung Yên |
Thị trấn Bồng Sơn |
52 |
212 |
Xây trường học |
08 |
Bồng Sơn |
Thị trấn Bồng Sơn |
25 |
76 |
Bệnh viện |
TỔNG CỘNG |
198 |
752 |
|
Hiện nay giáo dân phải đến nhà thờ Đại B́nh để cử hành phụng vụ
và lănh nhận các bí tích. Cha sở Đại B́nh phải cáng đáng chăm sóc
mục vụ cho giáo dân. Về phía giáo dân, việc đi lại của các cụ già và
trẻ em để hoàn thành bổn phận và thỏa nguyện nhu cầu sinh hoạt tôn
giáo là một sự trắc trở. Về phía linh mục, phục vụ nhu cầu tôn giáo
cho giáo dân trên một địa bàn mục vụ quá rộng lớn là một gánh nặng
trách nhiệm. Do đó, mong mỏi của linh mục cũng như giáo dân là làm
sao tái lập được nhà thờ để thuận lợi phục vụ cho nhu cầu tâm linh
tôn giáo.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thuộc thôn Đệ Đức III, xă Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn. Cánh
đồng nầy toạ lạc giữa trụ cây số Km 1141 cách Hà Nội 969 km, cách
thành phố HCM 750 km và trụ cây số km 1142 cách thị trấn Bồng Sơn 03
km, cách Quảng Ngăi 85 km.
[2] Mgr. Van Camelbecke, Rapport de 1890, Archivesmep.
Mepasie.org
[3] Quả chuông nầy hiện nay được đặt tại tháp chuông nhà thờ G̣
Thị
[4] Mémorial Mission de Qui Nhơn 1916, p. 118.
[5] - Archivesmep.Mepasie.org/ La Notice Nécrologie de Jean
François Porcher .
- Cha Gioakim Đoàn Kim Hiền, cựu cha sở Hội Đức, hiện nay là cha
sở giáo xứ Ghềnh Ráng cho biết mộ cha Porcher có tấm bia đặt sát
vách bên phải cung thánh nhà thờ (từ trên cung thánh nh́n xuống).
Trong chiến tranh nhà thờ đă bị tàn phá, không biết ngôi mộ và tấm
bia hiện nay ra sao. Hy vọng t́m lại được ngôi mộ của ngài.
[6] Mission de Qui Nhon, Compte-Rendu 1940-1941, p.12
Nguồn : Website GP Quy Nhơn
....................
Xem thêm
NHÀ THỜ CÔNG
GIÁO BỒNG SƠN
Lm. Phêrô Nguyễn Quang Báu
Linh mục Gioakim Đoàn Kim Hiền làm Chánh xứ Giáo xứ Hội Đức từ
ngày 01-08-1958 đến ngày 01-06-1960. Trên triền đồi phía Bắc đỉnh
dốc Hội Đức nằm trên quốc lộ số 01 hiện c̣n nền móng Trường Trung
học Tư thục Công giáo Hội Đức, nền nhà xứ, nền Nhà Thờ Giáo xứ Hội
Đức (quả chuông Hội Đức lớn ngang bằng với quả chuông lớn của Nhà
Thờ Nhà Đá, ngang bằng với quả chuông lớn của Nhà Thờ Gia Hựu). Dưới
nền Nhà Thờ Hội Đức vẫn c̣n ngôi mộ có hài cốt của Cố linh mục Chánh
xứ người Pháp Pierre Porcher Kính. Những năm 60-70, bom đạn chiến
tranh đă làm sập đổ b́nh địa Nhà Thờ Hội Đức, nhà xứ, trường học và
các nhà phụ thuộc.
Ngày 03-10-1958, Linh mục Gioakim Hiền đă giao cho Chính quyền
Bồng Sơn một số ruộng với đầy đủ Trích-lục hoán đổi khuôn đất để làm
vườn Nhà Thờ Công giáo Bồng Sơn. Giới cận của khuôn vườn Nhà Thờ
Công giáo Bồng Sơn: Nam giáp trường Trung học Tăng Bạt Hổ (cũ), Bắc
giáp bệnh viện Bồng Sơn (cũ), Đông giáp đường sắt, Tây giáp quốc lộ
số 01. Chỗ góc Tây Bắc khuôn đất vườn này, Linh mục Gioakim Hiền cất
một ngôi nhà cấp 4, xây gạch lợp ngói h́nh chữ nhật 3 gian: 2 gian
phía Đông làm Nhà Nguyện, 1 gian c̣n lại làm pḥng tiếp giáo dân.
Linh mục Gioakim Hiền cũng cất trường Mẫu giáo và nhà cho các Nữ tu
Hội ḍng Mến Thánh Giá Qui Nhơn ở dạy trẻ cho đến năm 1963.
Linh mục Phêrô Trịnh Hoài Ân làm Chánh xứ Giáo xứ Hội Đức, thay
thế Linh mục Gioakim Đoàn Kim Hiền làm giáo sư Chủng viện Làng Sông
từ ngày 01-06-1960.
Thay thế Linh mục Phêrô Trịnh Hoài Ân, Linh mục Gioakim Huỳnh Văn
Hóa, Chánh xứ Hội Đức, kiêm Hạt trưởng Hạt Bồng Sơn, đă xây ngôi nhà
một tầng trệt và một tầng lầu. Tầng trệt có 2 pḥng lớn và cầu thang
ở giữa. Tầng lầu có 2 pḥng lớn, 2 pḥng nhỏ và cầu thang ở giữa lên
sân thượng. Cuối năm 1964, cha Tôma Bùi Đức đang làm việc ở Trung
Tín, Quảng Ngăi di cư về ở Bồng Sơn. Cuối năm 1965, Cha Micae Ngô
Trung Lành đang làm việc tại Mỹ Thọ cũng di cư về Bồng Sơn.
Lúc làm Chánh xứ Giáo xứ Hội Đức ở tại Bồng Sơn (1966), Linh mục
Tôma Bùi Đức ở tại nhà lầu mới xây nầy. Linh mục Gioakim Huỳnh Văn
Hóa chỉ c̣n là Hạt trưởng Hạt Bồng Sơn ở ngôi nhà xây gạch lợp tranh
tại Giáo họ Tân Đức.
Năm 1965, nhiều giáo dân Giáo xứ Gia Hựu đến ở tập trung trong
những căn lều tạm bợ chật chội nơi khuôn viên Nhà Thờ Công giáo Bồng
Sơn. Ngày 01-03-1971, Đức Cha Giáo phận Qui Nhơn Đôminicô Hoàng Văn
Đoàn đặt Linh mục Phêrô Nguyễn Quang Báu làm Chánh xứ Giáo xứ Hội
Đức ở tại Bồng Sơn, kiêm Hạt trưởng Hạt Bồng Sơn, thường trú tại Nhà
Thờ Công giáo Bồng Sơn. Việc trước tiên là sửa ngôi nhà Linh mục
Gioakim Hiền đă xây: lấy trọn 3 pḥng làm Nhà Thờ có mặt tiền với
cây Thánh Giá nh́n ra quốc lộ số 01. Lúc bấy giờ, ở Hội Đức và ở Tam
Quan, mỗi nơi có một nhà nguyện nhỏ do cha Phêrô Bartôlômêô Trần Đức
Nam xây dựng.
Thời gian ở Bồng Sơn, ngày Chúa nhật Linh mục Phêrô Báu dâng
Thánh lễ 5 giờ sáng tại Nhà Thờ Bồng Sơn, dâng Thánh lễ 7 giờ tại
Nhà Nguyện Hội Đức, dâng Thánh lễ 9 giờ tại Nhà Thờ Tam Quan, và
dâng Thánh lễ 3 giờ chiều tại Nhà Thờ Bồng Sơn.
Nhà lầu Cha Gioakim Hóa đă xây cũng được sửa lại để có đủ pḥng
lớp dạy học. Tầng trệt: dời cầu thang ra hè phía Đông, xây làm 3
pḥng bằng nhau. Tầng lầu: dời cầu thang ra hè phía Đông, 2 pḥng
lớn, 2 pḥng nhỏ và chỗ cầu thang xây làm 3 pḥng bằng nhau. Ngôi
nhà lầu đă có 6 pḥng làm lớp học. Ngày 01-05-1971, đă xin Hội ḍng
Mến Thánh Giá Qui Nhơn cho 2 Nữ tu và 1 cô đệ tử đến Bồng Sơn, xin
được giấy phép mở trường Tư thục Công giáo Bồng Sơn. Đă dạy học được
một năm.
Ba tháng mùa Hè năm 1972, Đoàn quân Cách mạng giải phóng quận
Hoài Nhơn, quận Hoài Ân và quận An Lăo. Trường Tư thục Công giáo
Bồng Sơn phải đóng cửa. Các Nữ tu đă trở về nhà Mẹ Ḍng Mến Thánh
Giá tại Qui Nhơn.
Số người tạm cư trong khuôn vườn Nhà Thờ Công giáo Bồng Sơn di
tản vào Qui Nhơn, Ghềnh Ráng, Nha Trang, Cam Ranh, Sài G̣n t́m
phương sinh sống.
Linh mục Phêrô Nguyễn Quang Báu chạy vào tá túc tại Ṭa Giám mục
Qui Nhơn. Khi t́nh h́nh chiến cuộc tại Bồng Sơn lắng dịu, Linh mục
Phêrô Báu trở về Bồng Sơn. Nhà Thờ, nhà lầu, nhà các Nữ tu đều hư
sập. Đồ đạc: bàn ghế, tủ giường, sách vở mất hết. Một số sách vở và
giấy tờ bị đốt cháy. Nhiều rác rưởi và sắt phế thải của cả thị trấn
Bồng Sơn đă được quăng đổ như một băi rác khổng lồ nơi vườn Nhà Thờ
Công giáo Bồng Sơn. Người ta nói trong vườn Nhà thờ Công giáo Bồng
Sơn có nhiều đạn M79 và M72 chưa nổ bị chôn vùi dưới đất. Đă phải
thuê xe ủi đất dọn sạch và nâng mặt bằng khuôn vườn cao hơn 6 tấc.
Rất may, không có đạn nổ.
Đáng lẽ phải phá bỏ các ngôi nhà bị hư sập để xây dựng lại. Nhưng
v́ tiết kiệm, phải chấp nhận sửa dần dần. Ưu tiên một: sửa Nhà Thờ
để có nơi cho giáo dân cầu kinh dâng lễ. Tiếp theo: sửa nhà lầu và
nhà ở của các Nữ tu. Dọn khuôn vườn và nhà cửa sạch sẽ. Rào quanh
vườn và trồng dừa để làm ranh giới.
Vừa sửa xong các ngôi nhà. Sắm tạm đủ bàn ghế, tủ giường và những
vật dụng cần thiết. Một số ít người dân lánh cư lần lượt trở về dựng
tạm nhà lều ở trong vườn Nhà Thờ.
Ngày 03-08-1974, t́nh h́nh chiến cuộc lại leo thang. Dân tạm cư
lại chạy đến các nơi xem ra yên ổn. Khi các chốt đỉnh núi đều bị
đóng chặt, không thể vào Qui Nhơn theo quốc lộ số 01. Linh mục Phêrô
Nguyễn Quang Báu cùng với dân chúng theo quốc lộ số 01 chạy ra Quảng
Ngăi, xuống bến canô, mua vé vào Qui Nhơn theo đường biển. Sau một
đêm tù túng chật chội trên canô, sáng hôm sau tới bến cảng Qui Nhơn.
Về ở Ṭa Giám mục Qui Nhơn một thời gian khá lâu. Sáng 26-03-1975,
Linh mục Phêrô Nguyễn Quang Báu mướn xe lam về Bồng Sơn. Tới Phù Cát,
nghe đang có giao tranh tại Phù Ly. Tiếp theo, có người từ Bồng Sơn
hớt hải chạy vào cho biết chiều hôm trước Bồng Sơn đă có lệnh di tản.
Xe lam phải quay về Qui Nhơn. Linh mục Phêrô Nguyễn Quang Báu giă từ
Bồng Sơn 26-03-1975.
Tháng 06 năm 1975, Linh mục Phêrô Nguyễn Kỳ Hội được điều về làm
Chánh xứ Giáo xứ Hội Đức (ở tại Bồng Sơn), thường trú tại Nhà Thờ
Công giáo Bồng Sơn. Thứ Tư Tuần Bát Nhật Phục Sinh năm 1984, Linh
mục Phêrô Nguyễn Kỳ Hội đă được Thiên Chúa gọi về. Chỉ một ḿnh Linh
mục Phêrô Đặng Son cùng với giáo dân Bồng Sơn dâng Thánh lễ An táng
và tiễn đưa thi hài Linh mục Phêrô Nguyễn Kỳ Hội an nghỉ tại Nghĩa
trang Giáo họ Trung Lương. Năm 2000, mộ Linh mục Phêrô Nguyễn Kỳ Hội
đă được cải táng về Nghĩa trang các Linh mục tại Làng Sông. Linh mục
Phêrô Đặng Son, Chánh xứ Giáo xứ Đại B́nh kiêm nhiệm Chánh xứ Giáo
xứ Hội Đức.
Thời gian này, Nhà thờ Công giáo Bồng Sơn, trường lầu, nhà ở các
nữ tu bị triệt hạ: Bệnh viện Bồng Sơn đă được xây dựng trên khuôn
đất vườn Nhà Thờ Công giáo Bồng Sơn và khuôn đất trường Tăng Bạt Hổ
(cũ). Bệnh viện Bồng Sơn hiện nay phía Bắc giáp sát đất vườn Bệnh
viện Bồng Sơn (cũ). Bồn nước của Bệnh viện Bồng Sơn được đặt đúng
tại vị trí bàn thờ của Nhà thờ Công giáo Bồng Sơn.
Làng Sông, ngày 31-03-2013
Tác giả bài viết: Lm. Phêrô Nguyễn Quang Báu
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Xem
h́nh ảnh
|