
Lược
sử Giáo xứ Mằng Lăng
I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ
Giáo xứ Mằng Lăng thuộc phía Bắc tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp giáo
xứ Sông Cầu, phía Nam và phía Đông giáp giáo xứ Chợ Mới và Biển Đông,
phía Tây giáp giáo xứ Đồng Tre và giáo xứ Sơn Nguyên. Phần đất của
giáo xứ Mằng Lăng hiện nay bao gồm thị trấn Chí Thạnh, các thôn Hội
Tín và Phú Thịnh của xă An Thạch, các xă An Ninh Đông, An Ninh Tây,
An Dân, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh của huyện Tuy An.


Trên quốc lộ IA từ Bắc vô Nam qua trụ cây số 1300 sẽ gặp cầu Ngân
Sơn bắc qua sông Kỳ Lộ, dân địa phương gọi là sông Cái. Qua khỏi cầu
Ngân Sơn chừng 600m, hoặc nếu từ Nam ra Bắc cách ngă ba Chí Thạnh 2
km, gặp trụ cây số 1301, đi theo huyện lộ về hướng Đông 1.900m sẽ
đến nhà thờ Mằng Lăng cổ kính thuộc thôn Hội Tín, xă An Thạch. Nét
cổ kính của ngôi nhà thờ đă nói lên bề dày lịch sử của giáo xứ.
II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ
1. Nguồn gốc
Trong cuộc mở cơi tại Phú Yên, đáng chú ư là công lệnh ngày 06
tháng 02 năm 1597 của Nguyễn Hoàng giao cho Lương Văn Chánh chiêu
dân và đưa dân vào vùng đất phía Nam núi Cù Mông (thuộc thị xă Sông
Cầu ngày nay), Bà Đài (châu thổ sông Cái, thuộc huyện Tuy An ngày
nay), Bà Diễn (châu thổ sông Đà Rằng, thành phố Tuy Ḥa ngày nay),
Bà Niễu - Bà Nông, (châu thổ sông Bàn Thạch, huyện Đông Ḥa ngày
nay) để lập làng, khai khẩn đất hoang.[1]
Theo đó, ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên quan, nhưng măi đến
năm Kỷ Tỵ 1629, chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên mới cho lập Dinh Trấn
Biên và giao cho người con rể là Nguyễn Phúc Vinh làm quan Trấn Thủ.
Trong bản đồ Việt Nam gồm Đàng Ngoài và Đàng Trong của cha Đắc Lộ
năm 1651 ghi Dinh Trấn Biên là Dinh Phoan, phía trước Dinh là một
ḍng sông. Ngày nay Dinh Trấn Biên được người địa phương gọi là
Thành Cũ thuộc thôn B́nh Thạnh, xă An Ninh Tây, cách nhà thờ Mằng
Lăng về hướng Đông Bắc chừng 1 km đường thẳng, tất cả Dinh Trấn vang
bóng một thời, nay ch́m sâu dưới nước ḍng sông Cái.
Phu nhân quan Trấn thủ là Ngọc Liên công chúa, trưởng nữ của chúa
Săi, đă lănh nhận bí tích rửa tội năm 1636 với tên thánh Maria
Mađalêna. Cuộc ṭng giáo của bà được sử liệu ghi chép như sau: “ Tại
phú Yên lúc ấy xảy ra một cuộc căi lư giữa một giáo hữu sốt sắng tên
là Hiêrônimô, và một nho sĩ ngoại giáo trước mặt Quan Trấn Thủ...
Nho sĩ nầy phải đuối lư không trả lời được câu nào... Quan Trấn Thủ
rất mộ mến đạo ta, song ông không theo v́ ông không thể bỏ được các
vợ bé của ông; tuy vậy ông cho bà vợ cả theo đạo, nếu bà muốn. Bà
nầy liền ṭng giáo và chúng tôi hy vọng bà sẽ làm cho chồng bà trở
lại”. [2] Sau khi ṭng giáo bà lập một nhà nguyện ngay trong Dinh
Trấn Biên, hằng ngày nhiều giáo hữu đến đây tham gia việc bác ái và
truyền giáo làm cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa. Vợ chồng quan
coi cửa biển Tiên Châu cũng giữ đạo sốt sắng và đều lấy tên thánh là
Biển Đức. Ngoài ra c̣n có ông thầy thuốc danh tiếng, đạo đức, thương
người tên là Emmanuel ở tại Hội Phú được nhiều người quí mến.[3]
Như thế, nhóm giáo hữu đầu tiên ở vùng đất nầy thuộc thành phần
một số quan viên dinh trấn, hoặc những di dân phía Bắc đến lập
nghiệp theo chủ trương di dân lập ấp, và một số người mới đón nhận
Tin Mừng được các nhà truyền giáo Ḍng Tên rửa tội .
Trong khoảng 50 năm (1615-1664) những báo cáo thường niên của các
nhà truyền giáo Ḍng Tên ở Đàng Trong chỉ ghi có 3 cư sở: Nước Mặn,
Hội An và Dinh Chiêm. Đây là những trung tâm, từ đó xuất phát đi
truyền giáo các vùng lân cận. Như thế, lúc bấy giờ Phú Yên (Ranran)
nói chung và vùng Dinh Trấn Biên nói riêng là vùng hoạt động của các
nhà truyền giáo đặt cư sở tại Nước Mặn do cha Buzomi làm trưởng đoàn.[4]
Vào buổi sáng ngày 31 tháng 03 năm 1641, cha Đắc Lộ đến cửa biển
Bà Đài.[5] Cha được quan Trấn Thủ tiếp đón và ở lại đây 2 tháng, cha
thăm viếng các giáo hữu và đă rửa tội cho Anrê Phú Yên cùng với
khoảng 90 người khác tại nhà nguyện trong Dinh Trấn Biên.
Năm 1642, cha Đắc Lộ trở lại viếng thăm Phú Yên, khi trở về Hội
An, nơi có trụ sở của Hội Thầy giảng, cha đă dẫn theo Anrê Phú Yên.
Anrê Phú Yên đă bị bắt, chịu tử đạo vào ngày 26 tháng 07 năm 1644
tại G̣ Xử, thôn Thanh Chiêm, xă Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Năm 1645, cha Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt
Nam. Anrê Phú Yên đă được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong
Chân phước vào ngày 05 tháng 03 năm 2000, là Vị Tử Đạo “Tiên Khởi”
của Việt Nam.
Sau khi các nhà truyền giáo Ḍng Tên rời khỏi Đàng Trong (1665),
vùng truyền giáo Phú Yên do các linh mục thừa sai Paris đảm nhận,
đặt cư sở tại Chợ Mới.
Thời điểm tiền bán thế kỷ XVIII, công cuộc truyền giáo ở Phú Yên
được giao cho 2 nhóm thừa sai: vùng phía Bắc của tỉnh thuộc quyền
Hội Thừa sai Paris, đặt cư sở tại Chợ Mới và vùng phía Nam được giao
cho các nhà truyền giáo của Thánh bộ Truyền Bá Đức Tin, đặt cư sở
tại Phường Lụa.[6] Năm 1736, cha Giuseppe Martiali, thừa sai Thánh
bộ, xây dựng tại Phường Lụa một nhà nguyện. Lúc bấy giờ, theo kiểm
kê của Đức cha Edmond Bennetat, tỉnh Phú Yên gồm có 10 nhà nguyện và
6 nhà thờ.[7] Theo báo cáo của Hội Thừa sai Paris năm 1747, trong
tỉnh Phú Yên có 14 nhà thờ và nhà nguyện, trong đó có những nơi
thuộc vùng đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay: Thầy Đông có 100 giáo dân,
Mái Nhà có 25 giáo dân.[8]
Trong danh sách các linh mục tham dự công nghị G̣ Thị năm 1841 có
các linh mục làm việc tại Phú Yên: Gioakim Lê Văn Tự, Tôma Phan Văn
Tông, Anrê Nguyễn Phước Nguyên, Phaolô Đặng Văn Lợi.
Trong danh sách các linh mục bản xứ của vùng truyền giáo có ghi
số linh mục xuất thân từ Phú Yên: Cha Thới, cha Ḥa, cha Lộc,[9] cha
Hoàng[10], cha Đạt, cha Hậu[11], cha Cẩm.[12] Cũng trong danh sách
nầy có các cha làm việc tại Phú Yên: Cha Hiền, cha Thọ.[13] Trong
báo cáo năm 1850 của Đức cha Stêphanô Thể gởi cho Hội Thừa sai
Paris, vùng Mằng Lăng hiện nay có những họ đạo: Ḷ Giấy có 303 giáo
dân, Mằng Lăng 154, Thầy Đông 65, Đồng Thổ 72, Diêm Điền 230.
Thời điểm nầy số linh mục rất hiếm hoi, năm 1867 –1870 một ḿnh
cha Gustave Louis Derenne ở Mằng Lăng phụ trách toàn vùng Phú Yên,
năm 1870 ngài lâm bệnh, phải đưa về Singapore điều trị nhưng không
cứu khỏi, ngài qua đời vào ngày 08 tháng 12 năm 1870. Năm 1872, cha
Armand Landier đến thay thế, chẳng may bị một con chó dại cắn, cha
đă qua đời tại Thầy Đông[14] vào ngày 09 tháng 09 năm 1873.
Chặng đường dài truyền giáo kể trên như thời gian tung gieo hạt
giống chờ ngày mùa tử đạo. Tiền bán thế kỷ XIX với những sắc chỉ cấm
đạo triệt để, rồi dây dưa tiếp diễn một thời gian dài. Tín hữu khắp
nước thông phần thập giá với Chúa Giêsu đủ trăm ngàn cách. Tại Ḷ
Giấy có chú Giuse Nghiêm theo giúp Đức cha Stêphanô Thể, cùng bị bắt
với Đức cha tại nhà bà Lưu và chịu chết v́ Đạo tại G̣ Chàm, B́nh
Định năm 1861.[15] Cùng quê Ḷ Giấy có thầy Phêrô Quờn đă lănh bốn
chức nhỏ, chịu tử đạo ngày 27 tháng 06 năm 1862 tại G̣ Chàm với h́nh
án giảo quyết.[16] Cao điểm khốc liệt nhất là những ngày tháng của
phong trào Văn Thân “B́nh Tây Sát Tả”. Tổng kết toàn tỉnh: Trước Văn
Thân có 6.890 tín hữu gồm 40 họ đạo, 2 nhà phước, sau Văn Thân c̣n
1.109 người.[17]
Cha Eugène Durand viết: “Mới đây, tại Phú Yên là tỉnh phía Bắc
Khánh Ḥa, tôi đă thăm cảnh tro tàn thê lương của nhà ḍng Mằng Lăng
và Hoa Vông. Nhà ḍng đầu tiên chỉ c̣n lại hai nữ tu chuyên đi rửa
tội, đă may mắn vắng mặt lúc đám quân sát nhân tới bao vây họ đạo”.[18]
Cam chịu, phó thác, các nhóm tín hữu trong vùng Mằng Lăng đồng chịu
số phận.
Sau phong trào Văn Thân, đầu năm 1887, Đức cha Van Calmelbecke
Hân bổ nhiệm cha Joseph Guitton đến Phú Yên cùng 2 cha phụ tá: cha
Gioakim Đạt và cha Phêrô Huề. Cha Huề phụ trách phía Tây (Cây Da),
cha Đạt phụ trách phía Nam (Hoa Vông). Sau ngày 10 tháng 04 năm
1888, cha Joseph Lacassagne được bổ nhiệm đến Phú Yên với chức năng
quản nhiệm toàn vùng truyền giáo Phú Yên, ngài được tự do chọn Hoa
Vông hoặc Mằng Lăng làm trụ sở. Ngài đă chọn Mằng Lăng.
Tháng 09 năm 1888 Đức cha Van Camelbeke Hân chia Phú Yên làm 2
vùng: Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên có cha phụ tá người
Việt Nam là cha Đạt đặt cư sở tại Hoa Vông; cha Lacassagne phụ trách
vùng phía Bắc đặt cư sở tại Mằng Lăng, có cha Huề làm phụ tá ở tại
Cây Da. Năm 1893 cha Giuse Trần Nhi về thay thế cha Huề, hơn 4 tháng
sau cha Antôn Bản thay cho cha Nhi. Năm 1895 cha Bản về G̣ Duối, cha
Antoine Wendling đảm nhiệm vùng Miền Núi Phú Yên. Năm 1897 cha
Phanxicô Xaviê Hương về G̣ Duối thay cha Bản, năm 1898 cha Phêrô Cao
thay cho cha Hương.[19] Như thế mùa gặt tử đạo đă qua và những giọt
máu tử đạo đă trở nên những hạt giống mới trổ sinh nhiều hoa trái.
2. Địa sở Mằng Lăng
Với quyết định của Đức cha Van Camelbeke Hân vào tháng 09 năm
1888 đặt cha Joseph Lacassagne Xuân phụ trách vùng phía Bắc Phú Yên
và đặt cư sở tại Mằng Lăng, có thể xác định đây là thời điểm bắt đầu
chính thức của địa sở Mằng Lăng và cha Lacassagne là cha sở tiên
khởi.
Hai năm sau có 564 người lớn lănh nhận bí tích rửa tội, 162 em
được rửa tội trong trường hợp nguy tử. Cha Lacassagne vừa ổn định
đời sống giáo dân, vừa lo công việc truyền giáo, xây dựng lại phước
viện Mằng Lăng, lập cô nhi viện giao cho 2 nữ tu người bản xứ chăm
sóc. Năm 1892, cha khởi công xây dựng ngôi thánh đường Mằng Lăng
hiện nay.
Năm 1896, Phú Yên được chia thành 3 địa sở[20] giao cho 3 thừa
sai: địa sở vùng phía Nam giao cho cha Gustave Dubulle ở Hoa Vông,
miền núi giao cho cha Antoine Wendling ở Trà Kê và vùng phía Bắc do
cha Joseph Lacassagne ở Mằng Lăng đảm nhiệm.[21] Lúc bấy giờ Mằng
Lăng là địa sở trung tâm của Phú Yên, những sinh hoạt chung của các
linh mục đều tập trung về đây. Khi công việc xây dựng ngôi thánh
đường c̣n đang dang dở, cha Lacassagne bất ngờ lâm trọng bệnh và qua
đời tại bệnh viện quân đội ở Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 08 năm 1900,
lúc 44 tuổi. Thi hài cha được an táng chờ ngày phục sinh tại nhà thờ
Mằng Lăng hiện nay.
Cha Antoine Edmond Wendling Linh về làm cha sở Mằng Lăng năm
1901. Năm 1903 có 2.555 tín hữu trong 19 giáo điểm. Số người ṭng
giáo rất đông nhưng số tín hữu không gia tăng v́ những trận sốt rét
đă cướp đi nhiều nhân mạng. Năm 1906 số tín hữu chỉ c̣n trên dưới
2.360 người. Ngài tiếp tục công tŕnh xây dựng nhà thờ của cha
Lacassagne, khánh thành vào ngày 14 tháng 04 năm 1907. Nhà thờ có
hai tháp chuông với 3 quả chuông lớn nhỏ; ngày 30 tháng 05 năm 1905
thầy Cách đă đến cửa biển Tiên Châu đưa chuông lớn, quà tặng từ
Marseille, về Mằng Lăng. Đức cha Grangeon đến khánh thành và ngỏ lời
khen ngợi ‘ước ǵ đem được về B́nh Định để làm nhà thờ Chính Toà cho
Giáo phận...’.[22] Liền kề sau nhà thờ là nhà xứ có hè rộng tứ hướng
được chia làm 3 gian thoáng mát tồn tại cho đến ngày nay.
Bên cạnh nhà thờ có nhà lẫm kiên cố [23], tường dày 60 phân, sau
năm 1975 nhà lẫm hoàn toàn được san bằng. Nhờ nguồn thu từ số ruộng
đất trên 200 mẫu ta, nên sau khi hoàn thành nhà thờ, ngài lập lệ
phát chẩn hằng tháng cho các gia đ́nh nghèo, đặc biệt cung cấp lương
thực cho cô nhi viện. Những người mới lập gia đ́nh, ngài cấp đất làm
nhà. Các chức việc phục vụ địa sở cũng được cha phụ cấp hằng năm.
Những việc làm nầy được các cha sở kế nhiệm tiếp tục cho đến năm
1945. Năm 1918, v́ lâm bệnh cha Wendling phải trở về Pháp để chữa
trị và qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1923, lúc 46 tuổi.
Cha Marius Julien Jean về làm cha sở Mằng Lăng từ tháng 05 năm
1919 đến tháng 12 năm 1926. Năm Giáp Tư (1924), có trận băo lớn làm
sụp đổ tầng mái cổ lầu nhà thờ, cha làm lại phần mái, hạ thấp xuống
gần 2m như hiện nay.
Cha Jean Marie Porcher Kính đến Mằng Lăng vào tháng 02 năm 1927
và ở đây được 15 tháng, cha là vị thừa sai cuối cùng ở đây. Vào
tháng 06 năm 1928, Đức cha Augustin Tardieu Phú quyết định giao địa
sở cho các cha Việt Nam coi sóc.
3. Thời các cha sở người Việt
Cha sở người Việt đầu tiên là cha Giacôbê Lê Kim Dung (1928 –
1944). Cha củng cố, xây dựng nhà nguyện các họ nhánh, phát triển
phước viện, cô nhi viện, xây hang đá Lộ Đức, cổ vơ việc tôn sùng
Thánh Tâm. Cha xây dựng trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, dạy miễn
phí, thu nhận học sinh không phân biệt lương giáo. Ngôi trường nầy
sinh hoạt cho tới năm 1965, v́ chiến tranh, bỏ hoang phế 10 năm. Sau
ngày 30 tháng 04 năm 1975 c̣n 1 pḥng dùng làm nhà ở cho các nữ tu
đến giúp giáo xứ. Năm 2004, pḥng nầy được san bằng để xây nhà khách
hành hương Anrê Phú Yên như thấy ngày nay.
Năm 1948, cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch được bổ nhiệm làm cha sở
Mằng Lăng. Cha mở trường Trung học tư thục Trương Vĩnh Kư, trường
trung học thứ hai trong toàn tỉnh sau trường công lập Lương Văn
Chánh. Ngôi trường nầy sau năm 1975 vẫn c̣n dùng cho nhiều việc từng
thời điểm, lúc đầu dùng làm nơi sinh hoạt cho các thầy phân trường
Đại chủng viện Mằng Lăng; Sau đó dùng làm trụ sở Hợp tác xă Nông
nghiệp An Thạch, phân trường cấp I và II xă An Thạch; Các lớp học
giáo lư, pḥng đọc sách và pḥng truyền thống Anrê Phú Yên. Năm
2005, ngôi trường nầy được tháo dỡ lấy mặt bằng xây dựng đền Anrê
Phú Yên. Cha Tịch c̣n tổ chức đắp đập, mở hệ thống kênh mương đưa
nước về các cánh đồng trong vùng.
Năm 1954, thầy Antôn Phùng và thầy Boniface Ninh đến Phú Nhuận
truyền giáo. Ngày 29 tháng 05 năm 1955, gần 200 tân ṭng được rửa
tội. Họ đạo Phú Nhuận được ghi danh vào địa sở Mằng Lăng. Sau năm
1975, nền nhà thờ Phú Nhuận bị san bằng. Phú Nhuận ngày nay thuộc xă
An Ninh Đông. Đây là vùng đất đă đón nhận bước chân loan báo Tin
Mừng của các thừa sai từ trước tiền bán thế kỷ XVIII. Theo thống kê
năm 1747, giáo điểm Mái Nhà có 25 giáo dân. Năm 1832, Mái Nhà được
đổi thành Phú Ốc, nay thuộc thôn Phú Hạnh, xă An Ninh Đông.
Cho đến lúc nầy địa sở Mằng Lăng là địa sở quan trọng hàng đầu
của Phú Yên. Hằng tháng các linh mục trong vùng về đây tĩnh tâm. C̣n
một tờ giấy giới thiệu trong sổ rửa tội của Mằng Lăng có kư tên Linh
mục Gioan Phùng Văn Như, Hạt trưởng; lúc ấy cha đang là cha sở Mằng
Lăng.
Theo quyết định của Hội đồng Giáo phận họp tại Ṭa Giám mục Qui
Nhơn ngày 06 tháng 02 năm 1961, địa sở Mằng Lăng được tuyên bố là
một trong số 49 giáo xứ chính thức theo giáo luật (Paroecia) trong
Giáo phận Qui Nhơn (lúc ấy chưa chia tách Giáo phận Đà Nẵng).[24]
Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn về làm cha sở Mằng Lăng từ năm 1959,
nhưng v́ lư do chiến tranh, nên năm 1964 cha tạm rời Mằng Lăng về
Phú Tân, xă An Cư. Phước viện và cô nhi viện dời vào Tuy Hoà, dân
chúng di cư nhiều nơi, Mằng Lăng trở thành hoang vắng cho đến sau
năm 1975 mới dần dần hồi sinh.
Năm 1974, cha Phaolô Trương Đắc Cần đến Phú Tân thay cha Bàn được
vài tháng, sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 cha về Mằng Lăng lo tu sửa,
phục chế nhà thờ, nhà xứ sau 10 năm hoang vắng. Cha đă đề nghị với
Đức Giám mục Giáo phận thành lập Trung tâm Đại Chủng viện Mằng Lăng
qui tụ được 6 chủng sinh, hiện nay có 3 chủng sinh thuộc Trung tâm
Mằng Lăng đă được thụ phong linh mục: Giuse Trương Đ́nh Hiền, Vinh
Sơn Nguyễn Văn Bản và Gioan Vơ Đ́nh Đệ. Vào tháng 07 năm 1976 có cha
Phêrô Vơ Tá Khánh từ Đà Lạt về hướng dẫn nhóm chủng sinh nầy nhưng
đến ngày 13 tháng 10 năm 1976 cha phải trở về lại Đà Lạt. Ngày 21
tháng 02 năm 2009, cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đă được Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột.
Năm 1975, cộng đoàn ḍng Mến Thánh Giá Qui Nhơn được thành lập để
giúp mục vụ cho giáo xứ. Năm 2004, cộng đoàn dời sang cơ sở phước
viện, nay là cô nhi viện.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn
và cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri từ Giáo phận Đà Nẵng trở về Giáo
phận Qui Nhơn. Đức Giám mục Giáo phận quyết định lấy 3 giáo họ của
giáo xứ Mằng Lăng: Chợ Mới, Xóm Làng, Đồng Chay lập thành giáo xứ
Chợ Mới, giao cho cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri. C̣n lại 9 giáo họ
thuộc giáo xứ Mằng lăng do cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn đảm
nhiệm. Số giáo dân hồi cư ngày càng đông.
Năm 1986, cha Văn được bổ nhiệm làm cha sở Tuy Ḥa, cha Tri từ
Chợ Mới về làm cha sở Mằng Lăng. Từ đó Chợ Mới không có cha sở và
trở thành một giáo họ của Mằng Lăng.
Năm 1992, cha Phêrô Bùi Huy Bích từ Đồng Tre về Mằng Lăng thay
cha Tri. Cha có công trùng tu nhà thờ, mở rộng sân trước nhà thờ,
xây tường rào bao quanh, công việc hoàn thành vào ngày lễ Các Tổng
Lănh Thiên Thần, 29 tháng 09 năm 1994, kỷ niệm 102 năm xây dựng nhà
thờ. Ba năm sau, ngày 27 tháng 07 năm 1997, cha đột ngột qua đời do
tai biến mạch máu năo và được an táng trước đài Thánh Giuse trong
khuôn viên nhà thờ.
Đến tháng 12 năm 1997, cha Phaolô Nguyễn Minh Chính được bổ nhiệm
làm cha sở Mằng Lăng. Trước khi thụ phong linh mục, cha đă quen
thuộc Mằng Lăng, v́ cha là thầy giúp cho cha Phêrô Bùi Huy Bích khi
cha Bích làm cha sở Mằng Lăng. Nhân sự kiện Thầy giảng Anrê Phú Yên
được phong chân phước, cha Phaolô Chính lập pḥng truyền thống Anrê
Phú Yên, pḥng đọc sách Anrê Phú Yên dành cho các em thanh thiếu nhi
trong vùng, không phân biệt lương giáo. Đêm 25 tháng 07 năm 2000,
hội trại Anrê Phú Yên dành cho các giáo lư viên trong Giáo phận được
tổ chức lần đầu tiên. Ngày hôm sau, thánh lễ mừng kính Chân phước
Anrê Phú Yên được tổ chức long trọng, mở màn cho những năm kế tiếp.
Cha Phêrô Nguyễn Cấp (2003-2013) đă mở rộng khuôn viên nhà thờ và
xây dựng nhà khách hành hương Anrê Phú Yên, công tŕnh được khai
móng ngày 02 tháng 07 và hoàn thành tháng 12 năm 2004. Nhân dịp mừng
lễ Chân phước Anrê Phú Yên ngày 26 tháng 07 năm 2005, Đức Giám mục
Giáo phận đă làm phép khu đất chuẩn bị xây dựng đền kính Chân phước
Anrê Phú Yên tại phía Tây sân trước nhà thờ. Sau thời gian thi công,
ngôi đền được khánh thành ngày 26 tháng 07 năm 2008.
Năm 2013, sau khi cha Cấp xây dựng xong nhà thờ Chợ Mới, Đức cha
Matthêô Nguyễn Văn Khôi đă bổ nhiệm cha Cấp làm cha sở Chợ Mới, một
giáo xứ mới được tái lập tách ra từ Mằng Lăng; đồng thời đưa cha
Phêrô Trương Minh Thái từ Đông Mỹ về làm cha sở Mằng Lăng, sau khi
cha Thái xây dựng xong nhà thờ Đông Mỹ.
Về nhận giáo xứ Mằng Lăng, trước hết cha Thái đi gặp gỡ các gia
đ́nh công giáo nhưng không c̣n giữ đạo, để đưa họ về với Chúa. Tiếp
đến cha đi đến với những gia đ́nh bên lương. Ngoài ra, Mằng Lăng là
một điểm hành hương và đồng thời cũng là điểm tham quan, nên thường
xuyên có nhiều người từ xa đến. Cha phải tổ chức đón tiếp, gặp gỡ và
nhân tiện giới thiệu về đạo Chúa cho những người chưa biết Chúa.
III. CÁC CHA SỞ VÀ CHA PHÓ
- Các cha sở
1. Cha Joseph Lacassagne Xuân (1888-1900).
2. Cha Antoine Edmond Wendling Linh (1901-1918).
3. Cha Marius Julien Jean (1919-1926).
4. Cha Jean Marie Porcher Kính (1927-1928).
5. Cha Giacôbê Lê Kim Dung (1928 – 1944).
6. Cha Phaolô Trương Công Chánh (1944–1947).
7. Cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch (1948-1950).
8. Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1951-1952).
9. Cha Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan (1952 – 1955).
10. Cha Gioan Phùng Văn Như (1956-1957).
11. Cha Antôn Hoàng Liên Mầu (1957 – 1959).
12. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1959-1974).
13. Cha Phaolô Trương Đắc Cần (1974-1975).
14. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn (1975-1986).
15. Cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri (1986-1992).
16. Cha Phêrô Bùi Huy Bích (1992-1997).
. Cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên, cha sở Tịnh Sơn, tạm quyền quản
xứ Mằng Lăng.
17. Cha Phaolô Nguyễn Minh Chính (1997- 2003).
18. Cha Phêrô Nguyễn Cấp (2003-2013).
19. Cha Phêrô Trương Minh Thái (2013-…).
- Các cha phó
1. Cha Phêrô Huề, cha Giuse Trần Nhi, cha Antôn Bản, cha Phanxicô
Xaviê Hương, cha Phêrô Cao, cha Phục (thời cha Lacassagne).
2. Cha Antôn Linh, cha Giuse Dụng, cha Antôn Cẩm, cha Phêrô Lê
Châu, cha Micae Thiên, cha Philipphê Khiêm (thời cha Wendling).
3. Cha Phêrô Phan Nho, cha Simon-Tôma Nguyễn Đức Luận, cha Phaolô
Bường (thời cha Marius Julien Jean).
4. Cha Giacôbê Nguyễn Đ́nh Thuận, cha Gioan Nguyễn Suất, cha
Augustinô Nguyễn Thanh Long, cha Tôma Trần Ngọc Hườn (thời cha
Giacôbê Lê Kim Dung).
5. Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa, cha Phêrô Trần Anh Tước, cha
Gioakim Nguyễn Thanh Liêm (thời cha Phaolô Trương Công Chánh).
6. Cha Phaolô Vơ Hữu Tư (thời cha Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch).
7. Cha Phaolô Nguyễn Tấn Lạc (thời cha Gioan Phùng Văn Như).
8. Cha Phanxicô Phạm Đ́nh Triều (thời cha Phaolô Nguyễn Minh
Chính).
9. Cha Phêrô Vơ Hồng Sinh, cha Philipphê Phạm Cảnh Hiển (thời cha
Phêrô Nguyễn Cấp).
10. Cha Anphongsô Hoàng Phú Khánh (thời cha Phêrô Trương Minh
Thái).
V. CÁC LINH MỤC, TU SĨ, CHỦNG SINH XUẤT
THÂN TỪ GIÁO XỨ
- Các linh mục
1. Cha Phêrô Nguyễn Văn Quyển, Mằng Lăng, †1997
2. Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu, Mằng Lăng, †1968
3. Cha Phêrô Nguyễn Hoàng, Mằng Lăng, † 2009
4. Cha Tôma Lê Trung Khuê, Hội Tín
5. Cha Augustinô Nguyễn Văn Phú, Hội Tín
6. Cha Tôma Nguyễn Công Binh, Hội Tín
7. Cha Carôlô Nguyễn Phan Huy Dũng, Mằng Lăng
- Các tu sĩ
1. Tu huynh Tađêô Trần Tấn Đạo, Mằng Lăng, Ḍng Chúa Cứu Thế, †
2017
2. Tu huynh Karol Tám, Hội Phú, Ḍng Chúa Cứu Thế, † ?
3. Tu huynh Tađêô Dương Tha, G̣ Chung, Ḍng Tên
4. D́ Vở, Hội Tín, Phước viện MTG, † ?
5. D́ Khen, Thầy Đông, Phước viện MTG, † ?
6. D́ Lại, Mằng Lăng, Phước viện MTG, † ?
7. D́ Chẵn, Mằng Lăng, Phước viện MTG, † ?
8. Nữ tu Bénigna Bùi Thị Lành, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn, †
2013
9. Nữ tu Maria Trần Thị Đan Tâm, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
10. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Tuyết Huệ, Hội Tín, Ḍng MTG Qui Nhơn
11. Nữ tu Ysave Đặng Thị Bích Trâm, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
12. Nữ tu Anna Phạm Thị Thu Nga, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
13. Nữ tu Mađalêna Lê Thị Nữ, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
14. Nữ tu Ysave Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui
Nhơn
15. Nữ tu Luxia Huỳnh Thị Kim Cương, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
16. Nữ tu Macta Nguyễn Thị Hằng Ni, Mằng Lăng, Ḍng MTG Qui Nhơn
17. Nữ tu Maria Bénigna Mai Thị Ánh, Mằng Lăng, Ḍng Nữ Vương Hoà
B́nh
18. Nữ tu Jean Baptiste Nguyễn Thị Thương, Mằng Lăng, Ḍng Đức Bà
Truyền Giáo
19. Nữ tu Maria Dương Thị Lê, G̣ Chung, Ḍng MTG Thủ Thiêm
20. Nữ tu Anna Nguyễn Thị Tuyết Trinh, Mằng Lăng, Ḍng MTG Thủ
Thiêm
21. Nữ tu Macta Phạm Thị Bích Thủy, Mằng Lăng, Ḍng Thánh Phaolô
Đà Nẵng
22. Nữ tu Anna Trần Thị Khúc Ca, An Xuân, Ḍng Đa Minh
- Chủng sinh
1. Thầy Matthêô Nguyễn Kim Phê, Mằng Lăng.
2. Thầy Giacôbê Nguyễn Tấn Thức, Mằng Lăng.
........
[1] Công lệnh năm 1597 của Nguyễn Hoàng giao cho Lương Văn Chánh
việc chiêu tập lưu dân đến khai khẩn vùng đất nằm giữa đèo Cù Mông
và đèo Cả hiện được lưu giữ tại đền thờ Lương Văn Chánh ở thôn Long
Phụng I, xă Ḥa Trị, huyện Phú Ḥa, tỉnh Phú Yên.
[2] PHẠM Đ̀NH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất, Tinh Việt Văn Đoàn,
Sài G̣n 1959, tr. 50-51.
[3] Xem PHẠM Đ̀NH KHIÊM, sđd., tr. 51.
[4] Năm 1620, các thừa sai tại cư sở Nước Mặn phụ trách vùng
truyền giáo Quảng Ngăi, Qui Nhơn (B́nh Định) và Phú Yên.
[5] Cửa biển Tiên Châu, vịnh Xuân Đài, An Ninh Tây ngày nay.
[6] Phường Lụa là khu phố Ngân Sơn thị trấn Chí Thạnh ngày nay,
một vùng sản xuất lănh lụa ngũ sắc nổi tiếng một thời, ca dao c̣n để
lại: Đất Cù Du là nơi chiếu tốt, Lănh nào tốt bằng lănh Ngân Sơn.
[7] Xem ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, II,
sđd., tr. 198; Bulletin des Amis du Vieux Hue, Octobre-Décembre
1929, No. 4, tr. 208-209. Cha Martiali thuộc Ḍng Sylvestrê, người
Ư, thừa sai Thánh bộ Truyền Giáo.
[8] Xem ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, II,
sđd., tr. 189.
[9] Thụ phong linh mục trước năm 1844.
[10] Đức cha Stêphanô Thể truyền chức.
[11] Đức cha Charbonnier Trí truyền chức.
[12] Đức cha Louis Galibert Lợi truyền chức.
[13] Trước năm 1862.
[14] Ngày nay thuộc thôn Long Hoà, xă An Định, huyện Tuy An.
[15] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 51, 29 Mars 1909, tr.
48.
[16] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 53, 24 Mai 1909, tr.
77,79,86.
[17] Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1885 - Mgr
Van Camelbeke.
[18] AMEP, tập 821, tr. 3-7.
[19] Xem Mémorial Mission de Quinhon, du mois d'Avril 1927, tr.
30.
[20] Theo Giáo luật, chỉ nơi nào đă được thành lập Hàng Giáo Phẩm
mới có giáo xứ chính thức (Paroisse ). Giáo xứ là do Giám mục Giáo
phận Chính ṭa thiết lập. Trong các vùng truyền giáo như tại Việt
Nam lúc bấy giờ thường chỉ có Trụ sở Truyền giáo (Station
missionnaire). Tuy nhiên khi một trụ sở có đông giáo dân, lại có
phương tiện sống đầy đủ th́ có thể gọi là địa sở bán chính thức. Ở
đây khi dùng cách gọi ‘địa sở’ là theo cách dùng từ ‘Curé’ (cha sở)
trong những bổ nhiệm các linh mục.
Ngày 31/01/1958 Đức cha P.M. Phạm Ngọc Chi đă quyết định và công
bố các địa sở bán chính thức (quasi paroisse) những nơi sau đây: Đà
Nẵng, Trà Kiệu, Cù Và, Gia Hựu, Nhà Đá, G̣ Thị, Qui Nhơn và Mằng
Lăng (Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 03/1958, tr. 3).
Ngày 24/11/1960. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ
thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Ngày 06/02/1961, theo quyết nghị của Hội đồng Giáo phận họp tại
Toà Giám mục Qui Nhơn, các nơi sau đây được công bố là giáo xứ chính
thức: (ở đây chỉ ghi hạt Phú Yên ):Mằng Lăng, Đồng Tre và Tuy Hoà. (Xem
Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22/1961, tr. 13).
[21] Xem Fiche individuelle de Wendling.
[22] Mémorial Mission de Quinhon, Avril 1907. tr. 34.
[23] Phần mộ cha Phêrô Bùi Huy Bích hiện nay là góc Tây-Đông của
nhà lẫm.
[24] Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22, tháng 5 và 6 năm
1961, tr. 13.
Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận (22/5/2018)
Nguồn : Website GP
Quy Nhơn
Xem thêm : [
Lược sử Giáo xứ Mằng Lăng ] - Nguồn : Trang Web Giáo hạt Phú Yên