|
Giáo xứ Lư
Sơn nhiều thời để nhớ
Nguồn : Website GP Quy Nhơn
Ngày lễ trôi qua, vẫn c̣n nghe trong ḷng xôn xao nhiều cảm xúc.
Một ngày đặc biệt, như Đức Cha nói đầu lễ : bốn ư trong một. Hôm ấy,
Giáo xứ Lư Sơn tạ ơn 50 năm DCCT loan báo Tin Mừng trên đất đảo, 20
năm thành lập giáo xứ, nhận chức chánh xứ của cha Phanxicô Hoàng
Minh Đức và lănh Bí tích Thêm Sức của 17 em thiếu niên. Lễ hết, tiễn
khách về trong ngày đầy gió, mây làm rạp che kín bầu trời, dù đang
là mùa hè giữa trưa vẫn không t́m ra nắng. Ở đảo, thời tiết thế này
rất thích, gió không chớm lớn làm người ta sợ; đứng bên cửa, bước ra
sân, đi quanh nhà thờ gió vồn vă tới, chạy theo lay vạt áo như cố
thân thiện níu chân người ở lại…
Cũng như biển vắng không người, sóng cứ thản nhiên vỗ vào bờ cát
miệt mài không nghỉ, đời người linh mục đến rồi đi nhưng ơn Chúa
xuống trên Dân trước và sau vẫn đầy tràn. Nh́n những ngày tháng qua,
có ǵ làm ta nghĩ để mà bịn rịn?! Ô hay! Cộng đoàn Dân Chúa lúc nào
cũng có Ngài, v́ thế, những cột mốc thời gian cho thấy vùng đất đức
tin c̣n tươi mới này có nhiều thời để nhớ!
Đảo Lư Sơn một thời cách trở v́ biển rộng sóng cao. Những năm đầu
thập niên 60 của thế kỷ trước, hạt giống đức tin được gieo xuống từ
người giáo dân ra đảo làm nghề thuốc. Ông xin chủ nhà trọ lập bàn
thờ Chúa v́ là người Công Giáo. Cung cách ông cầu nguyện, lời kinh
ông khẩn nài, cuôc sống là chứng tá đă làm gia đ́nh ngoại giáo nơi
ông xin trọ tin theo. Thời ấy hoàn cảnh xă hội thuận lợi như “mưa
thuận giá hoà” nên cây đâm chồi nẩy lộc; chỉ thời gian ngắn Lư Sơn
thành giáo điểm, có đất làm nhà nguyện, thỉnh thoảng cha tuyên uư từ
Quảng Ngăi ra dâng lễ. Sau biến cố đảo chính năm 1963, cộng đoàn nhỏ
vừa mới qui tụ chưa được thành h́nh đă có nguy cơ tan ră v́ chính
quyền mới muốn thu hồi đất để làm trại gia binh. Thế rồi cũng qua,
vẫn giữ được đất, điều đáng nói là chính những người đạo mới, tuổi
đức tin c̣n ít mà chất đức tin đă trưởng thành, đứng ra chèo chống.
Nhớ hồi mới ra đảo, nghe câu chuyện thời khai sinh, ngỡ ngàng về sự
can trường sống đạo của những người tín hữu đầu tiên. Tôi băn khoăn
tự hỏi nhờ đâu mà chỉ thời gian ngắn họ thành trụ cột? Cũng có câu
trả lời, nhưng ở lâu, ngang qua những chuyện con người lại thấy rơ
bóng giáng Chúa Giêsu, đúng như lời Ngài đă hứa: hăy làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế
(x. Mt 28,16-20). Sống đức tin có nhiều cách nhưng khi ta truyền
giáo là biết chắc có Chúa Giêsu ở cùng.
Đến năm 1965, thời điểm Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ đổ quân vào
căn cứ Chu Lai, vùng đất Quảng Ngăi trở thành dầu sôi lửa bỏng, chỉ
có ban ngày tạm b́nh yên, đêm về là tiếng súng nổ, người chết nhanh
như bây giờ bị tai nạn giao thông. Trong hoàn cảnh đó, DCCT Châu Ổ
được Giáo phận giao thêm trách nhiệm truyền giáo đảo Lư Sơn. Cha
Tôma Thiện một ḿnh ra đảo, chặt lá dừa làm lán, chuyện truyền giáo
có vẽ rất thơ, giữa biển xanh cát trắng[1], người truyền giáo như
chàng nghệ sĩ phiêu lăng với t́nh yêu đầy khát vọng là ơn cứu rỗi
các linh hồn. Cha Tôma ra đảo chưa được một năm, Tỉnh Ḍng gọi vào
đất liền đi Pháp để chuẩn bị cho sứ vụ mới. Năm 1966, cha nhạc sĩ
Phêrô Nguyễn Hoàng Diệp ra đảo. Ngài người gốc Huế, mảnh mai thanh
cảnh, tưởng là cơ bắp không đủ sức đứng mũi chịu sào, giữa đầu sóng
ngọn gió. Vậy mà ngài là người có công đặt nền cho việc truyền giáo
trên đất đảo Lư Sơn. Đúng là : “Thiên Chúa không nh́n theo kiểu
người phàm” (2Sm 16,7).
.jpg)
Cha Phêrô ở đảo, có các thầy Học Viện trong thời gian thực tập
đến giúp, có cả những người giao dân đất liền vượt biển ra cộng tác.
Phải chăng ngọn gió Công Đồng Vaticanô II vượt biển Đông thổi tới,
đem tinh thần Sắc lệnh “Tông đồ giáo dân”[2] c̣n tươi chưa ráo mực
vào đảo nên tại Lư Sơn có một cộng đoàn tu sĩ và giáo dân hăng say
truyền giáo.
Không chỉ đem Chúa đến cho người dân xứ đảo, cha Phêrô Nguyễn
Hoàng Diệp có công rất lớn trong việc giáo dục, khai sáng văn hoá.
Ngài lập các đoàn thể cho các giới, tổ chức sinh hoạt dưới nhiều
h́nh thức như diễn văn nghệ, cắm trại, giao lưu… Ngài là người đầu
tiên mở trường dạy học cho con em trên đảo không phân biệt tôn giáo.
Trước khi ra đảo thực hiện sứ vụ truyền giáo, cha Phêrô lo việc đào
tạo cấp đệ tử của Nhà Ḍng, v́ thế, thật dễ hiểu khi thấy ngài đặt
việc giáo dục lên hàng đầu. Ngài mở trường, đưa các thầy, cô từ đất
liền ra để cùng với ngài và các thầy Học Viện chuyên chăm dạy dỗ các
em từ tiểu học đến trung học đệ nhất cấp, theo cách gọi thời đó,
tương đương với bây giờ là cấp I và II. Thời gian trôi qua, thời
cuộc xoá nhoà, người Công Giáo bây giờ chỉ là một nhóm nhỏ giữa 22
ngàn dân trên đảo, không mấy người biết cộng đồng ấy đă đóng góp ǵ
cho sự phát triển của huyện đảo Lư Sơn. Dẫu thế, thỉnh thoảng đi dự
đám giỗ, tôi được nghe những người có tuổi kể chuyện năm xưa, họ
nhận ḿnh là học sinh trường Thăng Tiến. Trong cách kể thoáng thấy
họ tự hào, nhắc lại cha Hoàng Diệp hay các thầy họ tỏ ḷng kính
trọng. Nhiều người trong số họ từng nắm giữ chức vụ lănh đạo. Có
người trong một lần chuyện tṛ bộc bạch cho biết: nếu không có những
lớp học của trường Thăng Tiến th́ ḿnh đâu có cơ hội để được như
ngày hôm nay.
Trường Thăng Tiên được xây trong khuôn viên nhà thờ tại xă An Hải,
cùng với trường là nhà Bác Ái. Khi con số giáo dân mỗi ngày thêm
đông, có các gia đ́nh ở xă An Vĩnh trở lại, năm 1972 ngài vận động
bà con dâng cúng, góp tiền mua đất xây nhà nguyện nhưng đồng thời
cũng làm trường học, v́ nhu cầu giáo dục quá lớn trong khi cơ sở vật
chất cả đời lẫn đạo chăng có ǵ. Tiếc là ngày nay, khuôn viên nhà
nguyện và trường học ở An Vĩnh biến thành chợ, ngôi nhà ngày xưa
được sử dụng làm nơi thờ phượng, mở mang dân trí đă từ lâu trở thành
hoang phế. Do được mượn mà không trả nó mới ra nông nỗi này! Đă qua
ba đời quản xứ, không biết bao lần gởi đơn xin lại nhưng đến nay vẫn
chưa nhúc nhích ǵ. Hy vọng đến một lúc, người ta mạnh dạn quyết
điều hầu như ai cũng biết: để phát triển đất nước ổn định cần phải
có công bằng, nói rằng ḿnh văn minh th́ tối thiểu sự công bằng phải
có. Qua rồi thời mạnh được yếu thua, bây giờ toàn cầu hoá, ....
Cha Hoàng Diệp hoàn thiện nhà thờ, xây nhà xứ, đến nay nhà thờ đă
được xây mới nhưng nhà xứ sau khi được phục hồi thời cha Micae
Trương Văn Hành, bây giờ vẫn c̣n chắc chắn và hợp thời. Năm 1974,
Việt Nam sắp đến hồi thống nhất, chiến sự diễn ra ác liệt ở vùng
Thừa Thiên, cơn sóng di tản vào Nam ngày càng nhiều. Nhà Ḍng Huế
một thời đông đúc giờ chỉ c̣n mỗi cha Lành và thầy Tađê, cha Hoàng
Diệp nhận bài sai mới rời đảo ra phục vụ ở Huế. Trong lúc người ta
đua nhau đi vào cha lại đi ra, đó cũng là một hành động anh hùng,
đầy hy sinh vâng phục của người tu sĩ thừa sai truyền giáo. Về Cố đô
lo việc Nhà Ḍng, mục vụ giáo xứ nhưng lửa truyền giáo trong ngài
không hề can, ngày cả khi về già, ngài cố diễn tả nội dung Kinh
Thánh dưới dạng thơ, in thành tập nhỏ tựa đề là “Trong ánh Tin Mừng”
nhằm giới thiệu Chúa cho những người chưa có đức tin. Ngài đi, cha
Micae ra tiếp nối công việc truyền giáo. Nếu thời của cha Phêrô
Nguyễn Hoàng Diệp là “làm” th́ có thể nói thời cha Micae Trương Văn
Hành là “chịu”!
.jpg)
Ngài chịu cảnh ra đảo một ḿnh không người cộng tác, v́ chiến
tranh nên không c̣n ai t́nh nguyện ra Châu Ổ, trung tâm truyền
giáo[3] chỉ c̣n ba cha ở lại, mỗi vị trụ một nơi và được quyền tự do
rời nhiệm sở bất cứ lúc nào.
Nhớ mùa mưa đầu tiên ở đảo, chẳng hiểu v́ sao gió lớn tựa như băo
thường hay về trong đêm. Nằm nghe luồng gió đi, khi c̣n xa là tiếng
hú đă về, rồi khi gió qua nhà, tiếng giật, rung rất mạnh ngỡ như nó
muốn bưng mái nhà quăng xuống đất. Nhà thờ sát biển, chung quanh lại
trống nên mỗi lần như thế đều có cảm giác trơ trọi làm ḿnh lo, rất
mong trời mau sáng. Những lúc ấy thường không ngủ được, chợt nghĩ về
cha Hành suốt gần mười lăm năm phải chịu ở một ḿnh trên đảo, trống
trăi hơn bây giờ gấp bội, thấy thương! Sự hy sinh của cha anh đi
trước quả là rất lớn. Bây giờ ta có làm được ǵ, giá trị của sự hy
sinh cũng không thể so sánh với các ngài thời đó, hơn nữa, bây giờ
ta có làm được ǵ cũng là nhờ đă có những hy sinh âm thầm như ra đảo
một ḿnh của cha Micae.
Sau thống nhất, do chưa hiểu nhau giữa Chính quyền mới và người
Công Giáo, ngài chịu cảnh sống bị nghi kỵ, giáo dân bị ngăn cản khi
đến với ngài. Ở Lư Sơn mùa hè biển rất êm, sang tháng 9 mùa mưa về
trên đảo thường kéo theo những vụ áp thấp làm thành băo. Đây là mùa
biển động, mùa nhiều lo lắng v́ năm nào cũng có người ra đi măi
không về, những cái chết trẻ để lại cảnh mẹ goá con côi. Mùa mưa năm
1978, người Công Giáo trên đảo từ lo biến thành sợ, do không c̣n chổ
dựa tinh thần, không c̣n nơi đặt niềm trông cậy trước những biến
động thời cuộc nhanh mạnh như động đất gây sóng thần. Ngày 18 tháng
9, cha Micae Trương Văn Hành bị trục xuất khỏi đảo vào đất liền sống
tại Nhà Châu Ô, chịu cảnh người mục tử không có đoàn chiên, phải làm
nghề nông trồng thuốc lá. Với xă hội thời đó, chưa biết tác hại của
thuốc lá nên hút thuốc là b́nh thường, chứ không như bây giờ đi đâu
cũng thấy “No Smoking”. Hơn mười năm làm nông, lấy phân chuồng bón
cây cha bị nhiễm virus Aspergillus gây ra chứng nấm phổi. Từ ngày
cha Micae bị buộc phải rời khỏi đảo, đàn chiên tan tác v́ chính sách
kinh tế mới, đưa dân đảo Lư Sơn lên sinh sống trên vùng núi huyện
Trà Bồng. Nhà thờ thành trường học, có lúc được dùng làm cơ sở của
công tác xă hội như nhà chiếu phim, nhà kho…
Hơn bốn năm ở kinh tế mới, người Công Giáo Lư Sơn sống không nỗi
trên rừng núi Trà Bồng dắt d́u nhau về đảo. Chính Quyền cũng thương
dân, có lẽ đă thấy không cho người ta về chẳng khác ǵ đẩy người ta
vào chổ chết nên làm ngơ. Về đảo bắt đầu lại từ số không, bà con
giáo dân hàng tuần tụ họp lại tại ngôi nhà ngày xưa bàn thờ Chúa lần
đầu tiên được lập trong gia đ́nh ngoại giáo. Đến mùa vọng năm 1993,
đúng như ư nghĩa của mùa lễ, mùa dân Chúa chờ đợi Đấng Thiên Sai,
niềm vui bất ngờ đến sớm, một người giáo dân cẩn thận ghi chép :
“Ngày 16 tháng 12 năm 1993, lúc 8 giờ 30 phút, Nhà thờ Lư Sơn được
trao trả lại cho Họ Đạo.” Lễ Giáng Sinh năm đó dù chưa có cha xứ ra
dâng lễ, bà con tự tổ chức phụng vụ Lời Chúa với nhau, nhưng có lẽ,
hơn bao giờ hết lời ngôn sứ Isaia trong bài đọc một của lễ đêm mừng
Chúa Giáng Sinh đúng nghĩa là lời Chúa đang nói với họ: “Đoàn dân
đang lần bước giữa tối tăm đă thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám
người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi…”
(Is 9,1). Không linh mục chỉ có người giáo dân gieo hạt giống đức
tin đầu tiên vào xứ đảo; không linh mục chỉ có người giáo dân giữ
cộng đoàn và dành lại nhà Chúa. Quá tuyệt vời! Đây chính là điểm đặc
biệt của giáo xứ Lư Sơn. Tôi nghiền ngẫm điều này. Trong một lần băn
khoăn làm sao để đoàn chiên thêm đông số, thoáng thấy bi quan nhưng
liền tan biến khi chợt nhận ra: chính Chúa gieo, chính Chúa ǵn giữ
th́ chắc chắn Chúa sẽ cho lớn lên.
.jpg)
Đầu năm 1994, Chính Quyền cho cha Micae trở lại đảo Lư Sơn dưới
dạng tạm trú. Ngài trở về với đoàn chiên khi phổi chỉ c̣n một lá,
người gầy ngỡ như không vững mỗi khi gió lớn về, đường từ Châu Ổ ra
bến cảng mùa mưa lầy lội. Lấy lại được nhà thờ nhưng nhà xứ th́ chưa,
trong căn pḥng nhỏ phía sau nhà thờ rộng chừng 36 m2, vừa là pḥng
áo, pḥng kho, vừa là nơi dành cho mọi sinh hoạt của ngài. Xem lại
chồng ảnh cũ, thấy cảnh ngài phát quà cho dân, hay đứng nh́n bà con
giáo dân tập trung về nhà thờ mổ heo mừng lễ, cảnh dọn lại nhà sau
đêm mưa băo… tôi thấy ngài như người mẹ, cộng đoàn nhỏ như một gia
đ́nh. Tháng 7 năm 1995, Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các nâng họ đạo Lư
Sơn lên hàng giáo xứ, mở ra một giai đoạn mới nhưng cũng đầy gian
lao, phải nhiều năm sau toàn bộ đất nhà thờ, nhà xứ mới được trả hết.
Ai đă từng trải qua t́nh trạng đứng nh́n tài sản của ḿnh bị người
ta chiếm đoạt, sử dụng tuỳ ư trong khi gia đ́nh ḿnh thiếu đói mới
có thể hiểu hết sức chịu đựng của cha Micae, trong thời gian đầu trở
lại đảo sau nhiều năm xa cách.
Kể lại chuyện cũ để thấy việc Chúa làm. Ngày xưa Chúa Giêsu nói
với thánh Phaolô Tông đồ: “Ơn của Thầy có đủ cho anh, v́ sức mạnh
của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Ở Lư
Sơn, thời cha Micae, lời Chúa đă nói thành ứng nghiệm. Với một lá
phổi, sức khoẻ mong manh, một ḿnh cô độc, cuộc sống khó khăn từ mọi
phía: thiếu thốn về vật chất, tinh thần bị o ép, lo cho giáo dân
không chỉ phương diện đức tin mà c̣n trợ giúp cuộc sống nghèo khổ
bệnh tật của họ nữa, vậy mà cha vui vẻ chu toàn. Đúng là “sức mạnh
của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Cha Micae đă dọn
đường thênh thang cho lớp trẻ tiếp nối. Năm 2005, cha Phêrô Phạm Đức
Thanh ra thay ngài. Cha Thanh dân sư phạm, ngài chú trọng việc giáo
dục nên mở lớp dạy thêm miễn phí, nhất là vào mùa hè, con em trên
đảo cả lương lẫn giáo kéo về nhà thờ học rất đông. Đây là điểm son
trong năm năm ngài làm quản xứ. Trung Thu năm 2010 tôi ra thay cha
Thanh, nh́n cách ngài sinh hoạt với các em theo lối vừa chơi vừa học,
rất hay. Tôi buột miệng nói : anh xuất “chiêu” kiểu này em c̣n vốn
đâu nữa để theo.
Thấm thoát đă 50 mươi năm trôi qua, biết bao dâu bể, mồ hôi và
nước mắt, có lúc tưởng rằng mất trắng, xoá sạch, chấm hết, đến lúc
không c̣n ǵ lại bổng thấy hồi sinh, như một phép mầu, ngỡ ngàng
nhận ra quả đúng như lời Chúa Giêsu đă nói : “Thầy ở cùng các con
mọi ngày cho đến tận thế.” V́ chỉ có Chúa ở cùng mới làm nên điều kỳ
diệu như cộng đoàn giáo xứ Lư Sơn đang có hôm nay, chứ sức con người
chắc chắn là không thể [4]. Chúa đă ban ơn bằng cách cho Hội Thánh
trong thời thử thách có các Đức Giám Mục đầy khôn ngoan, Tỉnh Ḍng
Chúa Cứu Thế quăng đại gởi đến các mục tử cháy lửa nhiệt thành, sống
chết với đàn chiên, bám trụ đến cùng như dân chài bám biển. V́ thế,
tuy xa xôi cách trở, thiếu thốn tứ bề, Lư Sơn được diễm phúc thành
giáo xứ, thành chị thành em trong gia đ́nh Giáo phận đến bây giờ vừa
trọn tuổi 20.
Ngày lễ như một cuốn phim cho ta nhớ lại từng khuôn mặt thân
thương, ng̣i bút này không đủ tài làm nổi bật những đường nét đặc
biệt cho độc giả cảm nghiệm được hồn Tông đồ truyền giáo là ǵ.
Ngang qua bao biến cố cuối cùng nhận thấy đời truyền giáo khi thuận
lợi th́ vui, lúc thử thất gian lao lại nếm được Chúa yêu ḿnh biết
mấy. Đi qua chặng đường dài nh́n lại chỉ có lời tạ ơn là tất cả. Tạ
ơn Chúa, cám ơn người dù người đó là ai. Tạ ơn Chúa v́ muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn t́nh thương, đến ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận
thế nên hành tŕnh truyền giáo không hề thiếu ơn, do đó, đoạn kết
bao giờ cũng có hậu. Cám ơn anh đă giúp, chúng tôi có điều kiện say
sưa làm việc trong cánh đồng Nước trời. Cám ơn chị làm khó, nhờ vậy
chúng tôi biết nguyện cầu và có bằng chứng để nói Chúa đă đến giúp
chúng tôi. Xin Chúa tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên các vị chủ
chăn trong suốt 50 năm loan báo Tin Mừng, và 20 năm thành lập giáo
xứ, đă dấn thân phục vụ về đời sống đức tin và văn hoá. Xin Chúa trả
công bội hậu cho tất cả Quư ân nhân đă giúp đỡ giáo xứ Lư Sơn từ
việc nhỏ đến việc lớn, qua bao tháng năm dài để hôm nay kết tụ lại
một toà hồng ân.
Ngày lễ tạ ơn, trước mặt là Đức Cha Matthêu, Cha Hạt trưởng Hạt
Quảng Ngăi, Quư Cha Bề trên, Quư Cha, Quư tu sĩ nam nữ, Quư cấp
Chính quyền, Quư khách thuộc tôn giáo bạn và cộng đoàn tôi nghĩ :
với Đức Cha là hiền phụ, mỗi người là một món quà Chúa gởi đến cho
giáo xứ Lư Sơn trong ngày đặc biệt này. Như ca từ của một bài hát
cất lên: “Ngày hồng phúc Chúa ơi…” Vâng! Hôm nay, đối với giáo xứ Lư
Sơn thật là hồng phúc, ngày của những kỷ niệm, và là ngày của hồng
ân. Giáo xứ có chủ chăn mới, có những người con ngoan vừa được Đức
Cha ban bí tích Thêm Sức. Xin chúc mừng giáo xứ Lư Sơn! Xin chúc
giáo xứ Lư Sơn được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, để cùng đồng hành
với toàn Giáo Phận nỗ lực hết sức ḿnh chiếu toả niềm tin, đặc biệt
cho những người chưa được biết Chúa.
[1] Do người dân lấy cát trồng tỏi, hiện nay, đảo Lư Sơn không
c̣n băi cát, bao quanh gần hết đảo là bờ kè chóng xói lở.
[2] Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII thiết lập Uỷ ban Tông đồ
giáo dân vào năm 1960. Ngày 18 tháng 11 năm 1965, Sắc lệnh “Tông Đồ
Giáo Dân” ra đời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, công
đồng chung đă quan tâm đền vấn đề tông đồ của người giáo dân một
cách đặc biệt.
[3] Giáo xứ Châu Ổ hiện nay trước đây là Trung tâm truyền giáo do
Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi thành lập và giao cho DCCT đảm
trách vào ngày 25 tháng 3 năm 1963. Các vị thừa sai tiên khởi là cha
Paquette (tên Việt Nam là cha Qui) làm bề trên, cha Đôminicô Đỗ Văn
Thừa, cha Phêrô Nguyễn Hoàng Diệp và 3 thầy tu huynh (thầy trợ sĩ).
[4] Trong Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2015, Đức Thánh Cha
Phanxicô viết : “Những người theo Đức Kitô không thể không trở thành
những nhà truyền giáo, v́ họ biết rằng Đức Giêsu “cùng đi với họ,
nói với họ, hít thở với họ, làm việc với họ. Họ cảm nhận được Đức
Giêsu sống với họ giữa công cuộc truyền giáo” (EG 266)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
.JPG)
|
|