Giáo phận Quy Nhơn

Giáo xứ Mằng Lăng
 
 

Lược sử Giáo xứ Mằng Lăng

Nguồn : Trang Web Giáo hạt Phú Yên

I. VỊ TRÍ ĐỊA LƯ :

Giáo Xứ Mằng Lăng thuộc phía Bắc Phú Yên. Phía Bắc giáp Giáo Xứ Sông Cầu, phía Nam giáp Giáo Xứ Tuy Hoà, phía Tây giáp Giáo Xứ Đồng Tre, phía Đông giáp Biển Đông. Phần đất của Giáo Xứ Mằng Lăng hiện nay bao gồm thị trấn Chí Thạnh và 12 xă của huyện Tuy An : An Thạch, An Cư, An Hiệp, An Hoà, An Mỹ (Bắc Ḥa Đa),An Ninh Đông, An Ninh Tây, An Dân, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh. Trên Quốc lộ IA Từ Bắc vô Nam qua trụ cây số 1300 sẽ gặp cầu Ngân Sơn bắc qua sông Kỳ Lộ, dân địa phương gọi là sông Cái. Qua khỏi cầu Ngân Sơn chừng 600 mét, hoặc nếu từ Nam ra Bắc cách ngă ba Chí Thạnh 02 Km, gặp trụ cây số 1301, đi theo huyện lộ về hướng Đông 1900 mét sẽ đến nhà thờ Mằng Lăng cổ kính thuộc thôn Hội Tín, xă An Thạch. Nét cổ kính của ngôi nhà thờ đă nói lên bề dày lịch sử của Giáo xứ.

II. ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ:

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ( mục Phú Yên, trang 07 ) có ghi : “Đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475) đánh Chiêm Thành mở đến đất nầy lấy núi Thạch Bi làm giới hạn, nhưng từ núi Cù Mông vào Nam c̣n thuộc man lèo. Qua triều Nguyễn đời chúa Tiên năm Mậu Dần (1578) vua ủy nhiệm ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên Quan, chiêu tập lưu dân đến Cù Mông, Bà Đài, khẩn hoang ở Đà Diễn.” Theo đó, ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên Quan nhưng măi đến năm Kỷ Tỵ 1629, chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên mới cho lập Dinh Trấn Biên và giao cho người con rể là Nguyễn Phúc Vinh làm Quan Trấn Thủ. Trong bản đồ Việt Nam gồm Đàng Ngoài và Đàng Trong của Cha Đắc Lộ năm 1651 ghi Dinh Trấn Biên là Dinh Phoan, phía trước Dinh là một ḍng sông. Ngày nay Dinh Trấn Biên được người địa phương gọi là Thành Cũ thuộc thôn Hội Phú, xă An Ninh Tây, cách nhà thờ Mằng Lăng về hướng Đông Bắc chừng 01 km đường thẳng, tất cả Dinh Trấn đă vang bóng một thời xưa, nay ch́m sâu dưới nước ḍng sông Cái (Sông Kỳ Lộ chảy đến đây người địa phương gọi là Sông Cái).

Vợ Quan Trấn Thủ là Ngọc Liên công chúa, trưởng nữ của chúa Săi đă lănh nhận bí tích rửa tội năm 1636 với tên thánh Maria-Mađalêna. Cuộc ṭng giáo của bà được sử liệu ghi chép như sau : “ Tại phú Yên lúc ấy xảy ra một cuộc căi lư giữa một giáo hữu sốt sắng tên là Hiêrônimô, và một nho sĩ ngoại giáo trước mặt Quan Trấn Thủ... Nho sĩ nầy phải đuối lư không trả lời được câu nào... Quan Trấn Thủ rất mộ mến đạo ta, song ông không theo v́ ông không thể bỏ được các vợ bé của ông; tuy vậy ông cho bà vợ cả theo đạo, nếu bà muốn. Bà nầy liền ṭng giáo và chúng tôi hy vọng bà sẽ làm cho chồng bà trở lại.” (Người Chứng Thứ Nhất – Phạm Đ́nh Khiêm – sđd trang 50-51). Sau khi ṭng giáo bà lập một nhà nguyện ngay trong Dinh Trấn Biên, hằng ngày nhiều giáo hữu đến đây tham gia việc bác ái và truyền giáo làm cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa . Tại Trại Thủy (gần cửa biển Tiên Châu) có vợ chồng quan coi cửa biển cũng giữ đạo sốt sắng đều lấy tên thánh là Biển Đức. Ngoài ra c̣n có ông thầy thuốc danh tiếng, đạo đức, thương người tên là Emmanuel ở tại Hội Phú được nhiều người quư mến (sđd).

Như thế, nhóm giáo hữu đầu tiên ở vùng đất nầy thuộc thành phần một số quan viên dinh trấn, hoặc những di dân phía Bắc đến lập nghiệp theo chủ trương di dân lập ấp ( năm Mậu dần 1578, với Ông Lương Văn Chánh), và một số người mới đón nhận Tin Mừng được các nhà truyền giáo ḍng Tên rửa tội.

Trong khoảng 50 năm (1615-1664) những báo cáo thường niên của các nhà truyền giáo ḍng Tên ở Đàng Trong chỉ ghi có 03 cư cở: Hội An, Nước Mặn và Thanh Chiêm. Đây là những trung tâm, từ đó xuất phát đi truyền giáo các vùng lân cận. Như thế, lúc bấy giờ Phú Yên (Ranran) nói chung và vùng Dinh Trấn Biên nói riêng là vùng hoạt động của các nhà truyền giáo đặt cư sở tại Nước Mặn do cha Buzomi làm trưởng đoàn (cách thành Qui Nhơn thời đó 10Km về hướng Đông).

Vào một buổi sáng ngày 31/3/1641 ( lễ Phục Sinh) Cha Đắc Lộ đến cửa biển Bà Đài (cửa biển Tiên Châu, vịnh Xuân Đài , An Ninh Tây ngày nay). Cha được Quan Trấn Thủ tiếp đón và ở lại đây 02 tháng, cha thăm viếng các giáo hữu và đă rửa tội cho Anrê Phú Yên cùng với khoảng 90 người khác tại nhà nguyện trong Dinh Trấn Biên.

Năm 1642, Ngài trở lại viếng thăm Phú Yên một lần nữa và khi trở về Hội An (Quảng Nam), nơi có trụ sở của Hội Thày Giảng, Ngài đă dẫn theo Anrê Phú Yên và cũng chính tại đây, Anrê Phú Yên chịu tử đạo vào ngày 26 tháng 7 năm 1644, lúc 19 tuổi, sau 03 năm lănh nhận bí tích rửa tội. Năm 1645, Cha Đắc-Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Vị Tử Đạo tiên khởi của Việt nam là Anrê Phú Yên đă được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân Phước vào ngày 05 tháng 3 năm 2000.

Sau khi các nhà truyền giáo ḍng Tên rời khỏi Đàng Trong (1665), lúc đầu vùng truyền giáo Phú Yên do các linh mục thừa sai Ba-Lê đảm nhận. Số giáo hữu tăng dần, nhiều giáo điểm có nhà nguyện được thiết lập, nhưng số Thừa Sai c̣n ít ỏi, không ở cố định một nơi, sự hiện diện của các Thừa Sai chỉ có tính cách văng lai. Trong bản tóm lược tiểu sử Đức Cha Charles Marin Labbé, Phó Giám Mục Đàng Trong (1697-1723) có ghi: “Ngài chết gần họ giáo chính của Phú Yên, thuộc vùng Mằng Lăng”. Lúc nầy Mằng Lăng chỉ là tên gọi của một vùng đất. Thời gian nầy công cuộc truyền giáo ở Phú Yên được giao cho 2 nhóm truyền giáo: Các vùng phía Bắc của tỉnh thuộc quyền Hội Thừa Sai Paris (MEP) và vùng phía Nam được giao cho các nhà truyền giáo của Thánh Bộ với nhà nguyện Phong-Lua được Cha Joseph Martiali xây dựng vào năm 1736, gần Nhà Thờ Chợ Mới. ( Phong lua đó là Phường Lụa, tục danh thôn Ngân Sơn thị trấn Chí Thạnh ngày nay, một vùng sản xuất lănh lụa ngũ sắc nỗi tiếng một thời, ca dao c̣n để lại : Đất Cù Du là nơi chiếu tốt, Lănh nào tốt bằng lănh Ngân Sơn.). Như vậy, cơ sở của hai nhóm đều đặt tại phần đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay, chắc chắn đây là trung tâm của công cuộc truyền giáo tỉnh Phú Yên. Lúc bấy giờ, theo kiểm kê của Đức Cha Bennétat, th́ tỉnh Phú Yên gồm có 10 Nhà Nguyện và 6 Nhà Thờ (BAVH, No.4, p.208-209). Theo báo cáo của Hội Thừa Sai Paris năm 1747 th́ trong tỉnh Phú Yên có 14 nhà thờ và nhà nguyện, trong đó có những nơi thuộc vùng đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay: Chợ Mới có 200 giáo dân, Thầy Đông 100 giáo dân, Mái Nhà 25 giáo dân, Quán Cau 100 giáo dân. Trong danh sách các linh mục tham dự công đồng G̣ Thị năm 1841 có các linh mục làm việc tại Phú Yên : Gioakim Lê Văn Tự, Tôma Phan Văn Tông, Anrê Nguyễn Phước Nguyên, Phaolô Đặng Văn Lợi. Trong danh sách các linh mục bản xứ của vùng truyền giáo có ghi số linh mục xuất thân từ Phú Yên : Cha Thới, cha Ḥa, Cha Lộc (thụ phong linh mục trước năm 1844), Cha Hoàng (Đức Cha Stêphanô), Cha Cẩm ( Đức Cha Luy Galibert Lợi truyền chức). Cũng trong danh sách nầy có các linh mục làm việc tại Phú Yên : Cha Hiền, Cha Thọ (trước 1862), cách Quán Cau về hướng Nam chừng 07 km có họ đạo G̣ Mỹ (G̣ Me – Ḥa Đa) là nơi cha Phạm Ẩn Sĩ (quê Gia Hựu) đă làm việc mục vụ trước khi chịu chết v́ Đạo tại Thái Nguyên năm 1862 (Mm. No.62/1910, p.12-14). Cha MAZOYER vừa thụ phong linh mục năm 1881 sau đó đến Quán Cau và bệnh sốt đă sớm đưa ngài về chầu Chúa tại Quán Cau ngày 06/10/1882 (Nécrologie de Mazoyer). Năm 1850 trong báo cáo của Đức Cha Stêphanô Thể gởi cho Hội Thừa Sai Ba-Lê Truyền Giáo Hải Ngoại, vùng Mằng Lăng hiện nay có những họ đạo : Chợ Mới 423 giáo dân, Đồng Cháy 243, Ḷ Giấy 303, Mằng Lăng 154, Thầy Đông 65, Đồng Thổ 72, Diêm Điền 230, An Ḥa 123, Suối Môn 168, Quán Cau 194. Lúc nầy Chợ Mới vẫn là cư sở của các linh mục. Tại Ḷ Giấy có chú Tađêo Nghiêm theo giúp Đức Cha Stêphanô, chú cùng bị bắt với Đức Cha tại nhà bà Lưu và chịu chết v́ Đạo tại G̣ Chàm, B́nh Định năm 1861 ( Mm. 1909 /No. 51/ P. 48). Cùng quê Ḷ Giấy có thầy Phêrô Quờn đă lănh bốn chức nhỏ, chịu tử đạo ngày 27/06/1862 tại G̣ Chàm với h́nh án giảo quyết ( Mm.5/1909,p.77,79,86).

Chặng đường dài truyền giáo kể trên như thời gian tung gieo hạt giống chờ ngày mùa tử đạo. Tiền bán thế kỷ 19 với những sắc chỉ cấm đạo triệt để, rồi dây dưa tiếp diễn một thời gian dài. Tín hữu khắp nước thông phần thập giá với Chúa Giêsu đủ trăm ngàn cách, nhưng cao điểm khốc liệt nhất là những ngày tháng của phong trào Văn Thân. Tổng kết toàn tỉnh: Trước Văn Thân có 6.890 tín hữu gồm 40 họ đạo, 02 nhà phước, sau Văn Thân c̣n 1.109 người.(R.A.E 1885. Mgr Van Camelbeke)

Riêng tại vùng Mằng Lăng:

Ngày 19/8/1885 Văn Thân đưa cha Iribarne (Cố Thành) về chầu Chúa tại Quán Cau, đầu th́ treo trên cây, thân ḿnh th́ được phân mảnh rồi thiêu đốt (Nécrologie de Iribarne). Phong trào Văn Thân cũng tiễn cha Bảo về chầu Chúa tại Chợ Mới. C̣n Nhà Phước Mằng Lăng th́ Cha Durand viết :“Mới đây, tại Phú Yên là tỉnh phía Bắc Khánh Ḥa, tôi đă thăm cảnh tro tàn thê lương của nhà ḍng Mằng Lăng và Hoa Vông. Nhà ḍng đầu tiên chỉ c̣n lại hai nữ tu chuyên đi rửa tội, đă may mắn vắng mặt lúc đám quân sát nhân tới bao vây giáo họ.” ( AMEP, tập 821, p.3-7). Cam chịu, phó thác, các nhóm tín hữu trong vùng Mằng Lăng đồng chịu số phận, những kỳ tích các nơi c̣n vang tiếng: Ḷ Giấy, Phú Sơn, Cầu Nhánh, Núi Một, Mằng Lăng, Soi Giữa, Thầy Đông.

Sau phong trào Văn Thân, đầu năm 1887 Đức ChaVan Calmelbecke cho Cha Guitton cùng 02 cha phụ tá cha Gioakim Đạt và Cha Phêrô Huề đến Phú Yên. Cha Guitton phụ trách phía Tây (Cây Gia), 02 cha phụ tá phía Nam ( Hoa Vông). Sau ngày 10/04/1888 Cha Lacassagne được bổ nhiệm đến Phú Yên với chức năng quản nhiệm toàn vùng truyền giáo Phú Yên, ngài được tự do chọn Hoa Vông hoặc Mằng Lăng làm trụ sở. Ngài đă chọn Mằng Lăng.

Tháng 09/1888 Đức Cha Van Camelbecke chia Phú Yên làm 02 vùng : Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên có cha phụ tá người Việt Nam là cha Đạt đặt cư sở tại Hoa Vông. Cha Lacassagne phụ trách vùng phía Bắc đặt cư sở tại Mằng Lăng , có cha Huề (quê Phú Điền) làm phụ tá ở tại Cây Gia. Năm 1893 Cha Giuse Nhi về thay thế cha Huề, hơn 04 tháng sau cha Antôn Bản thay cho cha Nhi. Năm 1895 cha Bản về G̣ Duối, cha Wendling đảm nhiệm vùng Miền Núi Phú Yên. Năm 1897 cha F.x Hương về G̣ Duối thay cha Bản, năm 1898 Cha Phêrô Cao thay cho cha Hương. (Mémoriale 4/1927, p. 30). Như thế mùa gặt tử đạo đă qua và những giọt máu tử đạo đă trở nên những hạt giống mới trổ sinh nhiều hoa trái.

1. Linh mục Joseph LACASSAGNE (Cố Xuân) : Đến Mằng Lăng năm 1888. Hai năm sau có 564 người lớn lănh nhận bí tích rửa tội, 162 em được rửa tội trong trường hợp nguy tử. Ngài vừa ổn định đời sống giáo dân vừa lo công việc truyền giáo, xây dựng lại Phước Viện Mằng Lăng, lập Cô Nhi Viện giao cho 2 nữ tu người bản xứ chăm sóc. Năm 1892, Cha Lacassagne khởi công xây dựng ngôi thánh đường Mằng Lăng hiện nay. Năm 1896, Phú Yên được chia thành 03 Giáo Xứ (Secteurs paroissiaux) (*) giao cho 03 Thừa Sai: Giáo Xứ vùng Phía Nam giao cho cha Dubulle, Miền Núi giao cho cha Wendling và vùng phía Bắc cha Lacassagne đảm nhiệm ( Fiche individuelle de Wendling), như thế từ đây ta có thể gọi Mằng Lăng như là một giáo xứ, và là giáo xứ trung tâm của Phú Yên , những sinh hoạt chung của các linh mục như tịnh tâm đều tập trung về đây. Khi công việc xây dựng ngôi thánh đường c̣n đang dang dỡ, ngài bất ngờ lâm trọng bệnh và mất tại bệnh viện Quân Đội ở ĐàNẵng vào ngày 01/8/1900, lúc 44 tuổi. Hài cốt được cải táng đem về chôn cất trong Thánh đường Mằng Lăng hiện nay.

2. Linh mục Antoine Joseph Louis Edmon WENDLING ( Cố Linh) : Cha Wendling về làm cha sở Mằng Lăng năm 1901. Năm 1903 có 2555 tín hữu trong 19 giáo điểm . Số người ṭng giáo rất đông nhưng số tín hữu không gia tăng v́ những trận sốt rét đă cướp đi nhiều nhân mạng. Năm 1906 số tín hữu chỉ c̣n trên dưới 2360 người. Ngài tiếp tục công tŕnh xây dựng Nhà Thờ của cha Lacassagne, khánh thành vào ngày 14 tháng 4 năm 1907. Nhà thờ có hai tháp chuông với 03 chuông lớn nhỏ, ngày 30/5/1905 thầy Cách đă đến cửa biển Tiên Châu đưa chuông lớn (quà tặng từ Marseille) về Mằng Lăng. Đức Cha Grangeon đến khánh thành, Đức Cha ngỏ lời khen ngợi ‘ước ǵ đem được về B́nh Định để làm nhà thờ Chính Toà cho Giáo Phận...’ (Mm. 04/1907. p.34). Liền kề sau nhà thờ là nhà vuông có hè rộng tứ hướng được chia làm 03 gian thoáng mát tồn tại cho đến ngày nay.

Bên cạnh nhà thờ có nhà lẫm kiên cố, tường dày 60 phân, sau năm 1975 nhà lẫm hoàn toàn được san bằng. Nhờ nguồn thu từ số ruộng đất trên 200 mẫu ta, nên sau khi hoàn thành Nhà thờ, ngài lập lệ phát chẩn hằng tháng cho các gia đ́nh nghèo. Những người mới lập gia đ́nh, ngài cấp đất làm nhà. Các Chức Việc phục vụ giáo xứ cũng được cha phụ cấp hằng năm. Những việc làm nầy được các cha sở kế nhiệm tiếp tục cho đến năm 1945. Năm 1918, v́ lâm bệnh Cha Wendling phải trở về Pháp để chữa trị và qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1923, lúc 46 tuổi.

3. Linh mục Marius Julien JEAN (Cố Gioan) : Cha Jean về làm cha sở Mằng Lăng từ tháng 05/1919 đến tháng 12/1926. Năm Giáp Tư (1924), có trận băo lớn làm sụp đổ tầng mái cổ lầu nhà thờ, cha làm lại phần mái hạ thấp xuống gần 2m như hiện nay.

4. Linh mục Jean Marie François PORCHER (Cố Kính) : Ngài đến Mằng Lăng vào tháng 02 năm 1927 và ở đây được 15 tháng, ngài là vị thừa sai cuối cùng ở đây. Vào tháng 6 năm 1928, Đức Cha Tardieu quyết định giao giáo xứ cho các linh mục Việt Nam coi sóc.

CÁC LINH MỤC QUẢN XỨ VIỆT NAM (1928 cho đến nay):

1. 1928 – 1944 Linh mục Giacôbê Lê Kim Dung (nguyên quán Trà Kiệu, Quảng nam) từ Trà Kê đổi đến. Ngài củng cố, xây dựng nhà nguyện các họ nhánh, phát triển Phước Viện , Cô Nhi Viện, xây hang đá Lộ Đức, cổ vơ việc tôn sùng Thánh Tâm. Ngài xây dựng trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, dạy miễn phí, thu nhận học sinh không phân biệt lương giáo. Ngôi trường nầy ngày nay c̣n 01 pḥng dùng làm nhà ở cho các nữ tu đến giúp giáo xứ. Năm 1944 ngài nghỉ hưu.

2. 1944 – 1947 Linh mục Phaolô Trương Công Chánh (nguyên quán Hoà Mục, B́nh Định).

3. 1947 – 1950 Linh mục Phêrô Nguyễn Đ́nh Tịch (nguyên quán Đồng Tre, Phú Yên). Ngài mở trường Trung Học Tư Thục Trương Vĩnh Kư, trường trung học thứ hai trong toàn tỉnh sau trường công lập Lương Văn Chánh. Ngôi trường nầy ngày nay vẫn c̣n, dùng làm lớp học giáo lư, pḥng đọc sách và pḥng truyền thống Anrê Phú Yên. Ngài tổ chức đắp đập, mở hệ thống kênh mương đưa nước về các cánh đồng trong vùng.

4. 1950 – 1951 Linh mục Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (nguyên quán Mằng Lăng).

5. 1951 – 1955 Linh mục Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan (nguyên quán Nghĩa Hành, Quảng Ngăi).

6. 1956 – 1957 Linh mục Gioan Phùng Văn Như (nguyên quán B́nh Cang, Nha Trang). Cho đến lúc nầy giáo xứ Mằng Lăng là giáo xứ quan trọng hàng đầu của Phú Yên. Hằng tháng các linh mục trong vùng về đây tĩnh tâm. C̣n một tờ giấy giới thiệu trong sổ rửa tội của Mằng Lăng có kư tên Linh mục Gioan Phùng Văn Như, hạt trưởng.

7. 1957 – 1959 Linh mục Antôn Hoàng Liên Mầu (nguyên quán Tiên Đỏa, Quảng Nam).

8. 1959 – 1974 Linh mục Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (nguyên quán Phú Thượng, Quảng Nam). V́ chiến tranh, nên năm 1964, ngài tạm rời Mằng Lăng về Phú Tân, xă An Cư. Phước Viện và Cô Nhi Viện dời vào Tuy Hoà, dân chúng di cư nhiều nơi, Mằng Lăng trở thành hoang vắng cho đến sau năm 1975 mới dần dần hồi sinh.

9. 1974 – tháng 12/1975 Linh mục Phaolô Trương Đắc Cần (nguyên quán Gia Hựu, B́nh Định). Ngài đến Phú Tân thay cha Bàn được vài tháng, sau ngày 30/4/1975 ngài về Mằng Lăng lo tu sửa, phục chế nhà thờ, nhà xứ sau 10 năm hoang vắng. Ngài đă đề nghị với Đức Giám Mục Giáo Phận thành lập Trung tâm Đại Chủng Viện Mằng Lăng qui tụ được 06 chủng sinh, hiện nay có 3 chủng sinh thuộc Trung Tâm Mằng Lăng đă được thụ phong linh mục: Giuse Trương Đ́nh Hiền, Vinh- Sơn Nguyễn Văn Bản và Gioan Vơ Đ́nh Đệ. Vào tháng 7 năm 1976 có cha Phêrô Vơ Tá Khánh từ Đà Lạt về hướng dẫn nhóm chủng sinh nầy nhưng đến 13/10/1976 cha phải trở về lại Đà Lạt.

10. 1975 – tháng 10/1986 Linh mục F.X. Nguyễn Xuân Văn (nguyên quán Đồng Dài, B́nh Định). Sau ngày 30/4/1975 cha F.X Nguyễn Xuân Văn và cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri từ giáo phận Đà Nẵng trở về giáo phận Qui Nhơn. Đức Giám Mục giáo Phận quyết định lấy 03 giáo họ của giáo xứ Mằng Lăng : Chợ Mới, Xóm Làng, Đồng Cháy lập thành giáo xứ Chợ Mới, giao cho cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri. C̣n lại 09 giáo họ thuộc giáo xứ Mằng lăng do cha F.X. Nguyễn Xuân Văn đảm nhiệm. Số giáo dân hồi cư ngày càng đông.

11. 1986 – tháng 03/1992 Linh mục Giacôbê Nguyễn Thành Tri (nguyên quán Tân Lộc, Quảng Ngăi). Khi cha Tri làm cha sở Mằng Lăng, giáo xứ Chợ Mới không có linh mục đến ở thường xuyên, cha sở Mằng Lăng kiêm nhiệm Chợ Mới.

12. 1992 – 27/07/1997 Linh mục Phêrô Bùi Huy Bích (nguyên quán Gia Hựu, B́nh Định). Ngài có công trùng tu Nhà Thờ và hoàn thành công việc vào ngày Lễ Tổng Lănh Thiên Thần 29/6/1994, cũng là năm kỷ niệm 102 năm xây dựng Nhà Thờ. Ngài đột ngột qua đời do tai biến mạch máu năo vào ngày 27/7/1997. Mộ ngài nằm trước đài Thánh Giuse trong khuôn viên nhà thờ.

13.Tháng 09/1997 – tháng 11/1997 Linh mục Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên ( nguyên quán Bùi Chu).

14. Tháng 12/1997 – tháng 06/2003 Linh mục Phaolô Nguyễn Minh Chính (nguyên quán Gia Hựu, B́nh Định).

15. 02/07/2003 ...... Linh mục Phêrô Nguyễn Cấp.


(*) Theo Giáo Luật, chỉ nơi nào đă được thành lập Hàng Giáo Phẩm mới có giáo xứ chính thức ( Paroisse ). Giáo xứ là do Giám Mục Giáo Phận Chính Ṭa thiết lập. Trong các vùng truyền giáo như tại Việt Nam lúc bấy giờ thường chỉ có Trụ Sở Truyền Giáo ( Station missionnaire ). Tuy nhiên khi một trụ sở có đông giáo dân, lại có phương tiện sống đầy đủ th́ có thể nâng lên hàng giáo xứ bán chính thức . Trong các bài nầy khi dùng cách gọi ‘giáo xứ’ là theo cách dùng từ ‘Curé’ trong những bổ nhiệm các linh mục.

Ngày 31/01/1958 Đức Cha P.M. Phạm Ngọc Chi đă quyết định và công bố nâng lên hàng giáo xứ bán chính thức ( quasi paroisse ) những nơi sau đây : Đà Nẵng, Trà Kiệu, Cù Và, Gia Hựu, Nhà Đá, G̣ Thị, Qui Nhơn và Mằng Lăng ( Thông Tin số 03/1958, trang 03).

Ngày 24/11/1960. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII kư Sắc Chỉ thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam .

Ngày 06/02/1961, theo quyết nghị của Hội Đồng Giáo Phận họp tại Toà Giám Mục, các nơi sau đây được công bố là giáo xứ chính thức : ( ở đây chỉ ghi hạt Phú Yên )

Mằng Lăng, Đồng Tre và Tuy Hoà. (Thông tin số 22/1961, trang 13).


¨ CÁC CHA PHÓ

STT

HỌ TÊN

NGUYÊN QUÁN

THỜI CHA SỞ

01

Cha Phêrô HUỀ

Phú Điền, Phú Yên

Cha Lacassagne

02

Cha Giuse Trần NHI

Triều Thủy, Phú Yên

03

Cha Antôn BẢN

Khánh Mỹ, Khánh Hoà

04

Cha F.x. HƯƠNG

Tân Dinh, B́nh Định

05

Cha Phêrô CAO

Nước Nhỉ, B́nh Định

06

Cha PHỤC

Làng Sông, B́nh Định

07

Cha Antôn Linh

Nam B́nh, B́nh Định

Cha Wendling

08

Cha Giuse DỤNG

Tân Quán, B́nh Định

09

Cha Antôn CẨM

Hà Dừa, Nha Trang

10

Cha Phêrô Lê CHÂU

Gia Hựu, B́nh Định

11

Cha Micae THIÊN

Hoà Mục, B́nh Định

12

Cha Philip KHIÊM

G̣ Găng, B́nh Định

13

Cha Phêrô NHO

Tân Dinh, B́nh Định

Cha M.J.Jean và

Cha J.M.Porcher

14

Cha Simon LUẬN

Sông Cát, B́nh Định

15

Cha Phaolô BƯỜNG

Truông Dốc, B́nh Định

16

Cha Giacôbê Nguyễn Đ́nh Thuận

Trà Kiệu, Quảng Nam

Cha Giacôbê Dung

17

Cha Martinô Nguyễn Hộ

Tân Quán, B́nh Định

18

Cha Aug. Nguyễn Thanh Long

An Chỉ, Quảng Ngăi

19

Cha Joan Suất

TrungTín , Quảng Ngăi

20

Cha Tôma Trần Ngọc Hườn

Trà Câu, Quảng Ngăi

21

Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa

Suối Nổ, B́nh Định

Cha Phaolô Chánh

22

Cha Phêrô Trần Anh Tước

Vân Đoả, Quảng Nam

23

Cha Giacôbê Nguyễn Thanh Liêm

G̣ Thị, B́nh Định

24

Cha Phaolô Vơ Hữu Tư

Suối Nổ, B́nh Định

Cha Phêrô Tịch

25

Cha Phaolô Nguyễn Tấn Lạc

Chợ Mới, Nha Trang

Cha Gioan Như

¨ CÁC THẦY GIÚP XỨ

STT

HỌ TÊN

GHI CHÚ

THỜI CHA SỞ

01-08

Thầy BA HIỆP, Thầy ĐỊNH, Thầy HỨA, Thầy CẬY, Thầy CHÂU, Thầy NHI ( Lm 1893), Thầy SÔ, Thầy TÀI.

Thầy Đại Chủng Viện

Cha Lacassagne

09-21

Thầy CÁCH, Thầy SANG, Thầy HIỆU, Thầy QUẢNG, Thầy HẠNH, Thầy CHẨN, Thầy THẾ, Thầy HIỂN, Thầy CAO (Thụ phong linh mục đổi tên là cha Luận, quê Sông Cát), Thầy THIẾT(Trà Câu), Thầy LAI, Thầy PH̉, Thầy THÀNH

Thầy Đại Chủng Viện

 

Cha Wendling

22

Thầy SÂM ( Quảng Nam )

Thầy Đại Chủng Viện

Cha M.J.Jean

23

Thầy LOAN ( Quảng Ngăi )

Thầy Đại Chủng Viện

24

Thầy TRÍ ( B́nh Định )

Thầy Giảng

Cha Giacôbê Dung

25

Thầy LY ( Quảng Nam )

Thụ Phong LM 1939

26

Thầy VINH ( Tân Dinh )

Thầy Giảng

27

Thầy SEN ( Quảng Ngăi )

Thầy Giảng

28

Thầy SỒ ( G̣ Dài )

Thụ Phong LM 1943

29

Thầy CHÁNH

Thầy Đại Chủng Viện

Cha Phaolô Chánh

30

Thầy THIỀU ( G̣ Dài )

Đă thụ phong LM

31

Thầy MARC

Ḍng Thánh Giuse

Cha Giuse Tịch,

Cha Phêrô Lưu,

Cha Phaolô Ngoan

32

Thầy AMBROISE

33

Thầy DOMINIQUE

34

Thầy SÉRAPHINE

35

Thầy BONIFAC

36

Thầy LUC

37

Thầy LÂN

Thầy Đại Chủng Viện

Cha Antôn Mầu

38

Thầy Phêrô Hoàng KYM

Thụ Phong LM 1965

Cha Phaolô Bàn

39

Thầy Micae Nguyễn Tri PHƯƠNG

Thụ Phong LM 1969

40

Thầy Phaolô Nguyễn Minh CHÍNH

Thụ Phong LM 1997

Cha Phêrô Bích

41

Thầy Phanxicô Phạm Đ́nh TRIỀU

Thụ Phong LM 2002

Cha Phaolô Chính

 CÁC NỮ TU D̉NG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN GIÚP XỨ

STT

HỌ TÊN

GHI CHÚ

THỜI GIAN

01

Antonia Nguyễn Thị BẢO

 

1975 - 1982

02

Clara Mai Thị Mỹ XOA

 

1975 - 1982

03

Marie Consolata Trần Thị Bích NGỌC

 

1978 - 1997

04

Barthélémie Trần Thị Bích LIÊN

 

1976 - 1977

05

Jérémia Nguyễn Thị TƯƠI

 

1976 - 1994

06

Maria Nguyễn Thị Ngọc ÁNH

 

1982 - 1993

07

Maria Nguyễn Thị NGHIỆP

 

1987 - 1989

08

Sophia Nguyễn Thị Ngọc LAN

 

1987 - 1989

09

Brigitte Nguyễn Thị Trọn

 

1997 - 1998

10

Maria Vơ Thị Thu THỦY

 

1992 - 1996

11

Mađalêna Bùi Thị Thanh HUYỀN

 

1996 - 1998

12

Léonie Nguyễn Thị NGỜI

 

1998 - 2002

13

Lucia Trần Thị QUYỀN

 

1999 - 2001

14

Matta Phan Thị THANH

 

1998 - 2000

15

Cêcilia Nguyễn Thị Thu THỦY

 

1996 - 1997

16

Matta Nhuyễn Thị THỦY

 

1997 - 1998

17

Anna Hồ Thị HẠNH

 

2002 -

18

Anna Lê Thị Nhị DUNG

 

2001 -

III. CÁC GIÁO HỌ THUỘC GIÁO XỨ MẰNG LĂNG NGÀY NAY

Sau năm 1892, giáo dân lần lượt quy tụ, phân ra ở thành từng nhóm, nhiều người gia nhập đạo. Năm 1903 số giáo dân lên đến 2555 người sống rải rác trong 19 giáo điểm. Ngày nay số giáo dân chưa tới 3000 người trong 12 giáo họ như sau:

1. Họ chính Mằng Lăng, thuộc thôn Hội tín, xă An Thạch, huyện Tuy An. Ngôi Thánh đường nguy nga được xây dựng năm 1892, với một quần thể gồm: Nhà Xứ, Nhà các nữ tu giúp xứ, Hang đá Đức Mẹ, Tượng đài Thánh Giuse. Để đánh dấu sự kiện trọng đại là Anrê Phú Yên được tôn phong chân phước ngày 5/3/2000 tại Roma, Tượng đài Chân Phước Anrê Phú Yên và Pḥng Truyền Thống Anrê Phú Yên được thành lập. Đồng thời, một pḥng đọc sách mang tên Anrê Phú Yên cũng được đưa vào hoạt động để phục vụ các em thiếu nhi trong vùng bất kể lương giáo. Bên ngoài phạm vi thánh đường, c̣n có Phước Viện Mằng Lăng và Cô Nhi Viện Mằng Lăng, là những cơ sở hoạt động cùng thời với ngôi thánh đường.

2. Họ Ḷ Giấy, thuộc thôn Long Uyên, xă An Dân, bị sụp đổ vào thời chiến tranh, nay chỉ c̣n một nền đất cao.

3. Họ Chợ Mới, thuộc thôn Hà Yến, xă An Thạch. Đây là một trong những họ đạo lâu đời, là một trong những họ đạo đầu tiên trong tỉnh.

4. Họ Thầy Đông, thuộc thôn Long Hoà, xă An Định. Hiện nay, nền nhà thờ đă bị cư dân chiếm dụng.

5. Họ Hội Tín, trước kia gọi là Diêm Điền. Năm 1998, được xây mới hoàn toàn cùng với các công tŕnh phụ.

6. Họ G̣ Chung, thuộc thôn B́nh Hoà, xă An Dân. Nhà nguyện được chỉnh trang vào năm 1995 và nới rộng thêm Pḥng Thánh vào năm 2000.

7. Họ Đồng Cháy, thuộc thôn Phước Lương, xă An Cư. Nhà nguyện được tân tạo năm 1997.

8. Họ Xóm Làng, thuộc thôn Quảng Đức, xă An Thạch. Năm 1996, được xây mới hoàn toàn.

9. Họ Đồng Thổ, thuộc xă An Nghiệp. Hiện nay chỉ c̣n di tích nền và khu vườn.

10. Họ Sông Cái, thuộc thôn Định Trung, xă An Định. Hiện nay chỉ c̣n nền nhà nguyện.

11. Họ Hội Phú, thuộc thôn 1, xă An Ninh Tây. Hiện nay c̣n nền nhà nguyện.

12. Họ Phú Nhuận, thuộc thôn 5, Xă An Ninh Đông. Hiện nay c̣n nền nhà nguyện.

Nói chung, trong số 12 chi họ, hiện nay chỉ c̣n họ chính Mằng Lăng và 5 chi họ có nhà nguyện, có đông đúc tín hữu, có sinh hoạt tổ chức; c̣n các nơi khác th́ hoặc sáp nhập với chi họ kế cận hoặc nhập về họ chính Mằng Lăng để sinh hoạt.

IV. LINH MỤC, TU SĨ XUẤT XỨ TỪ MẰNG LĂNG ( tính đến năm 2003):

1. Các linh mục:

STT

HỌ VÀ TÊN

GIÁO HỌ

NĂM SINH

CHỊU CHỨC

NƠI LÀM VIỆC

01

Gioakim Đạt

Quán Cau

1821

1865

Chết 1902

02

Phêrô Nguyễn Văn QUYỂN

Mằng Lăng

1897

1929

Chết 1997

03

Phêrô Nguyễn Vĩnh LƯU

Mằng Lăng

1908

1937

Chết 1968

04

Giuse Nguyễn Tấn CHÂU

Chợ Mới

 

1945

Chết 1952

05

Phêrô Nguyễn HOÀNG

Mằng Lăng

1920

1958

KonTum

06

Phêrô Nguyễn Kim THĂNG

Chợ Mới

1958

1995

Nha Trang

07

Tôma Lê Trung KHUÊ

Hội Tín

1957

1991

Hoa Kỳ

08

Aug. Nguyễn Văn PHÚ

Hội Tín

1968

2002

Phú Yên

09

Tôma Nguyễn Công BINH

Hội Tín

1970

2002

Phú Yên

2. Các tu sĩ :

STT

HỌ VÀ TÊN

GIÁO HỌ

D̉NG

GHI CHÚ

01

Tađêo Trần Tấn ĐẠO

Mằng Lăng

Chúa Cứu Thế

 

02

Tađêo Dương THA

G̣ Chung

Chúa Giêsu

 

03

D́ LẠI

Mằng Lăng

Phước Viện

Chết

04

D́ CHẲN

Mằng Lăng

Phước Viện

Chết

05

Sophia Nguyễn Thị Ngọc LAN

Chợ Mới

MTG Qui Nhơn

Chết 2001

06

Jacintha Nguyễn Thị SEN

Xóm Làng

MTG Qui Nhơn

 

07

Bénigna Bùi Thị LÀNH

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

 

08

Maria Nguyễn Thị Ngọc ÁNH

Chợ Mới

MTG Qui Nhơn

 

09

TêrêxaTháiThịHuyềnLINH (Lợi)

Chợ Mới

MTG Qui Nhơn

 

10

Maria Trần Thị Đan TÂM

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

 

11

Maria Nguyễn Thị Tuyết HỤÊ

Hội Tín

MTG Qui Nhơn

 

12

Ysave Đặng Thị Bích TRÂM

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

 

13

Anna Ngô Thị Kim CHUNG

Đồng Cháy

MTG Qui Nhon

 

14

Anna Phạm Thị Thu NGA

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

 

15

M.Madalena Lê Thị NỮ

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

 

16

Ysave Nguyễn Thị Tuyết Thanh

Mằng Lăng

MTG Qui Nhơn

Nhà Tập

17

Luxia Trần Thị Mỹ LINH

Chợ Mới

MTG Qui Nhơn

Nhà Tập

18

M.Bénigna Mai Thị ÁNH

Mằng Lăng

Nữ Vương Hoà B́nh

 

19

Jean B.t. Nguyễn Thị THƯƠNG

Mằng Lăng

Đức Bà Truyền Giáo

 

20

Maria Dương Thị LÊ

G̣ Chung

MTG Thủ Thiêm

 

21

Matta Nguyễn Thị Hoàng THI

Xóm Làng

MTG Thủ Thiêm

Nhà tập

22

Anna Nguyễn Thị Tuyết TRINH

Mằng Lăng

MTG Thủ Thiêm

Nhà Tập

23

Matta Phạm Thị Bích THỦY

Mằng Lăng

Phaolô Đà Nẵng

 

24

Maria Nguyễn Thị Thúy HẰNG

Mằng Lăng

MTG Nha Trang

 

25

Anna Trần Thị Khúc CA

An Xuân

Đa Minh

 

Trải ngót 400 năm phát triển của giáo xứ, từ một tia sáng đức tin manh nha loé lên để rồi dần dần lan toả khắp miền trong tỉnh như hiện nay, mảnh đất này đă hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của ḿnh là đón nhận và gieo văi hạt giống Tin Mừng. Hưng thịnh rồi suy tàn, sự không vững bền đă được Thiên Chúa xếp đặt trong mọi sự vật để nhắc nhớ rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Trường Tồn và Bất Biến. Tuy nhiên, trong khi t́m kiếm Thiên Chúa Vĩnh Hằng, người giáo dân Mằng Lăng không ngừng tiếc nuối thời gian hào hùng đă qua. Hào quang sáng chói nhất trên vùng trời giáo xứ vẫn là Chân Phước Anrê Phú Yên, người đă làm rạng danh cho giáo xứ trên khắp thế giới, đă được Đức Gioan Phaolô II nhắc tên như một mẫu gương đức tin sống động cho giới trẻ toàn cầu trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 17 tại Toronto, 2002. V́ thế, trong khi nỗ lực sống đạo cho xứng với di sản tinh thần cha ông để lại, người giáo dân Mằng Lăng mong muốn phục hồi lại những ǵ đă mất, những chi họ mang những địa danh mà ngày nay chỉ c̣n nghe nhắc đến tên , bởi lẽ đó cũng là những di sản mà cha ông đă khổ công gầy dựng.

Nguồn : Trang Web Giáo hạt Phú Yên

 

[Trở về đầu trang ]