|

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Phần đất giáo xứ Thác Đá Hạ gồm các thôn, xã, thị trấn
thuộc huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định: thôn Định Bình của xã Hoài
Đức; các thôn Giao Hội 1, Giao Hội 2, An Dưỡng 1, An Dưỡng 2 của xã
Hoài Tân và các xã Hoài Mỹ, Hoài Xuân, Hoài Hải, Hoài Hương, Hoài
Thanh, Hoài Thanh Tây, Hoài Hảo, Hoài Phú, Hoài Châu, Hoài Châu Bắc,
Hoài Sơn, Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc, thị trấn Tam Quan. Từ phía Nam
đầu cầu Bồng Sơn (cầu cũ) đi về phía hạ lưu sông Lại Giang khoảng
hai cây số sẽ đến trung tâm sinh hoạt của giáo xứ là nhà thờ Thác Đá
Hạ, thôn Định Bình, xã Hoài Đức.
II. LƯỢC SỬ
Sau 129 năm kể từ ngày các thừa sai Dòng Tên đến lập
trụ sở truyền giáo tại Nước Mặn vào năm 1618 (nay thuộc thôn An Hòa,
xã Phước Quang, huyện Tuy Phước), vùng truyền giáo tỉnh Bình Định
được chia làm hai miền : Miền Nam Bình Định có 13 giáo điểm do các
thừa sai Hội Truyền Giáo Paris phụ trách. Miền Bắc Bình Định có 14
giáo điểm do các thừa sai Dòng Phanxicô phụ trách.[1] Đến năm 1850,
phía Bắc Bình Định có 29 giáo điểm, được chia thành 2 xứ : Bồng Sơn
miền Biển có 14 giáo điểm, Gia Hựu là trụ sở. Bồng Sơn miền Núi có
15 giáo điểm : Đồng Hâu Đông, Đồng Hâu Tây, Đồng Đỗ, Ngãi Điền, Đồng
Quả Đông, Đồng Quả Tây, Đồng Quả Nam, Đồng Quả Bắc, Đồng Quả Hạ,
Truông Ổi, Đồng Dài, Đại Bình, Thác Đá, Bình Phú, Tây Phú, trong đó
Thác Đá là trụ sở của xứ nầy.
Trên đường lẩn trốn của Đức cha Stêphanô Cuénot Thể
trong lúc các chiếu chỉ bách hại gắt gao, năm 1856 Đức cha ở lại
Thác Đá trọn tuần lễ. Cùng năm này, cha Jean Claude Roy (cố Từ) được
Đức cha bổ nhiệm làm cha sở Thác Đá. Theo lệnh Đức cha, năm 1861,
cha Roy Từ cùng với cha Herrengt (Cố Nhơn), cha sở Gia Hựu, đưa các
chủng sinh đang ẩn trú tại Gia Hựu vào Sài Gòn.[2] Năm 1862, sau khi
chiếu chỉ tha đạo được ban hành, cha Roy trở về nhiệm sở. Cha được
bổ nhiệm làm Quyền Đại diện Đông Đàng Trong năm 1864-1870. Năm 1870,
cha về Pháp.
Trước năm 1885, địa sở Thác Đá có 400 giáo dân, có
Phước viện Mến Thánh Giá và Cô nhi viện, cả thảy 140 người. Lúc bấy
giờ trung tâm của địa sở Thác Đá là Thác Đá Hạ hiện nay.[3]
Trong đêm 03 đến ngày 04 tháng 08 năm 1885, cha Barrat
François-Xavier (cố Chung), cha sở Thác Đá và cha Mão (phụ tá), các
nữ tu, các em cô nhi và một số giáo dân bị Văn Thân thiêu sống tại
nhà thờ Thác Đá Hạ. Tại các sở họ khác, cuộc thảm sát xảy ra vào
ngày 04 và 05 tháng 08, tổng cộng trên 1.800 giáo dân bị sát hại. Số
giáo dân sống sót rất ít.
Sau năm 1887, cha Geffroy Bửu, cha sở Gia Hựu phụ trách
chung cả vùng Bắc Bình Định, có cha phụ tá ở tại Thác Đá, Đồng Quả
và Đồng Dài. Với sự cộng tác của cha Durand Lộc, cha Geffroy đã tổ
chức qui tập hài cốt các tín hữu vùng Bắc Bình Định bị Văn Thân bách
hại. Số hài cốt này được chôn cất tại bốn nhà mồ: Gia Hựu, Đồng Quả,
Thác Đá và Nước Nhỉ. Hiện nay nhà mồ tại Thác Đá Thượng tương đối
còn nguyên vẹn. Sự kiện nhà mồ được xây dựng tại Thác Đá Thượng cho
thấy sau năm 1885, Thác Đá Thượng trở thành trung tâm sinh hoạt của
địa sở. Cơ sở tại Thác Đá Thượng gồm nhà thờ và nhà vuông hướng mặt
về phía Tây, hướng ra đường cái quan. Bên trong tường rào, nằm về
phía bên phải từ đường cái đi vào, một đài kỷ niệm các kitô hữu Thác
Đá bị bách hại năm 1885 giống như đài kỷ niệm ở Gia Hựu nhưng nhỏ
hơn nhiều. Bên trái là nhà giáo lý, một thầy dòng Thánh Giuse dạy
học ở đó khi không phải lo việc khẩn thiết khác. Thác Đá Thượng có
một tầm quan trọng đặc biệt nhờ tọa lạc giữa hai ga xe lửa Bồng Sơn
và Bình Chương, rất gần với bưu điện, chợ, bệnh xá, cơ quan hành
chánh địa phương Pháp cũng như Việt, các ngả đường đều tụ về đây,
đường bộ cũng như đường thủy, từ Đồng Quả, Gia Chiểu, An Lão, Đồng
Dài, hoặc ngược dòng sông Lại Giang từ cửa An Dũ lên đến đường cái
quan.[4]
Năm 1890, Đồng Quả được tách khỏi Thác Đá, thành lập
địa sở Đồng Quả.
Năm 1898, cha Demeure phụ trách Thác Đá một thời gian
ngắn. Cha Charles Vallet được bổ nhiệm đến Thác Đá làm việc cho đến
năm 1903.
Từ năm 1889 đến năm 1900, các giáo điểm bị Văn Thân
bách hại dần dần hồi sinh và số tín hữu mới gia tăng rất đông, do đó
nhiều họ đạo được thành lập thuộc địa sở Thác Đá: Trung Yên, Trung
Lương, Vạn, Mỹ Thọ, Tân Đức và Lò Gốm.
Năm 1899, Đồng Dài được tách khỏi Thác Đá, thành lập
địa sở Đồng Dài.
Năm 1903, số giáo hữu Thác Đá tính được 3.882 người
trong 28 họ đạo. Số giáo hữu gia tăng nhanh như thế nên các họ đạo:
Vạn, Mỹ Thọ, Tân Đức, Hội Đức và Lò Gốm được tách ra từ Thác Đá để
thành lập địa sở Hội Đức.
Năm 1905, cha Charles Saulçoy được bổ nhiệm đến Thác Đá
cho đến năm 1917.
Năm 1914, họ đạo Gia Chiểu được tách khỏi địa sở Thác
Đá, nhập vào địa sở Đồng Quả.
Trong thời điểm thiếu linh mục, các đời cha sở Thác Đá
kiêm nhiệm địa sở Đồng Dài :
Cha Giacôbê Chỉ ( 8.1917- 7.1923)
Cha François Jamet (1923-1925)
Cha Émile Laborier (1925-1927)
Năm 1936, cha Paul Valour (cố Lực) được bổ nhiệm làm
cha sở Thác Đá.
Năm 1937, cha Giuse Nguyễn Tý làm cha sở Thác Đá. Năm
1941, cha dời trụ sở về Đại Bình. Năm 1952, cha được bổ nhiệm làm
tuyên úy dòng Mến Thánh Giá.
Theo thống kê tình hình Giáo phận năm 1941, địa sở Thác
Đá có các họ đạo:[5]

Từ năm 1952-1954, cha Phêrô Nguyễn Đình Tịch, cha sở Nước Nhỉ
kiêm nhiệm Thác Đá. Cha Giuse Tô Đình Sơn đến làm việc tại Đại Bình
trong thời gian ngắn.
Năm 1955, cha Giuse Nguyễn Văn Ái được bổ nhiệm làm cha sở Thác
Đá, ở tại Đại Bình. Năm 1957, cha xây dựng nhà thờ và nhà vuông Đại
Bình khang trang, từ đây địa sở Thác Đá được gọi là địa sở Đại Bình.
Thời cha Giuse Nguyễn Văn Ái làm cha sở Đại Bình (1955-1972) có
cha Antôn Hoàng Tiến Nam làm phụ tá, ở tại Thác Đá Thượng (1971-
1974).
Năm 1961, cha Giuse Lê Văn Ấn, người con của Thác Đá Hạ, chánh xứ
Đà Nẵng (1956-1965), đã xây tại Thác Đá Hạ một đài kỷ niệm các kitô
hữu Thác Đá bị Văn Thân bách hại năm 1885 ngay tại nền nhà thờ Thác
Đá ngày xưa và một ngôi nhà thờ tại nền nhà thờ Thác Đá Hạ hôm nay.
Trong thời gian chiến tranh từ 1965 – 1975, phần lớn các cơ sở
tôn giáo của các giáo họ trong giáo xứ bị bom đạn tàn phá, giáo dân
di cư. Khi hòa bình vãn hồi, một số giáo dân trở về quê, tập trung
sinh hoạt tại nhà thờ Đại Bình và nhà thờ Thác Đá Thượng.
Sau chiến tranh, một số nhà thờ của các giáo họ chưa được phục
hồi, nơi thì bình địa, nơi thì không còn vết tích vì hoàn cảnh chiến
tranh và hoang phế quá lâu, nơi thì chỉ che tạm bợ để giáo dân có
nơi hôm sớm đọc kinh cầu nguyện. Nhà thờ Thác Đá Hạ cùng chịu chung
số phận với các nhà thờ khác trong vùng. Nhà thờ Thác Đá Hạ do cha
Giuse Lê Văn Ấn xây, mái bị sập nát, mặt tiền gãy đổ, xiêu vẹo. Cha
Giuse Võ Tuấn, chánh xứ Đại Bình (2000-2014), cho che tạm một phần
nhỏ nhà thờ bằng tấm bạt nhựa với lèo tèo vài cây tre chống đỡ.
Tháng 07 năm 2011, ngôi nhà thờ bị đổ nát này được khởi công xây
dựng lại. Sau một thời gian thi công với sự chạy vạy, tổ chức và
giám sát của cha Giuse Võ Tuấn, cùng sự cộng tác của bà con giáo dân
và sự giúp đỡ của các ân nhân, nhà thờ, hang đá Đức Mẹ và một quần
thể nhà xứ, nhà giáo lý đã hoàn thành. Ngày 16 tháng 10 năm 2013,
nhà thờ được cung hiến theo luật phụng vụ thánh do Đức Giám mục Giáo
phận Qui Nhơn chủ sự. Nhà thờ mới được cung hiến với tước hiệu “CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM”, lễ bổn mạng được mừng vào ngày 24 tháng 11
hàng năm.

Nhà thờ Thác Đá Hạ trước khi trùng tu
Ngày 12 tháng 07 năm 2014, cha Giuse Nguyễn Bá Thành được bổ nhiệm
làm phó xứ Đại Bình, đặc trách giáo họ biệt lập Thác Đá Hạ, gồm các
giáo họ Thác Đá Hạ, Tăng Long, Kim Bồng và Mỹ Thọ, trong địa bàn
thôn Định Bình xã Hoài Đức, xã Hoài Mỹ, xã Hoài Hải, xã Hoài Thanh,
xã Tam Quan Nam và xã Tam Quan Bắc.
Ngày 11 tháng 08 năm 2017, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám
mục Giáo phận Qui Nhơn ban hành quyết định thành lập giáo xứ Thác Đá
Hạ gồm 4 giáo họ của giáo họ biệt lập Thác Đá Hạ, cộng với 12 giáo
họ của giáo xứ Đại Bình: Hoài Trung, Hội Đức, An Dưỡng, Ngọc An, Tấn
Thạnh, Lương Thọ, Cự Tài, Tam Quan, Gia Hựu, Gò Xoài, Bàu Giêng và
Thành Sơn đồng thời bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Bá Thành làm chánh xứ.
Như vậy, giáo xứ Thác Đá Hạ bao gồm 618 giáo dân được phân bổ
trong 16 giáo họ với hiện tình như sau:

.jpg)
Tài liệu tham khảo:
Mémorial de la Mission de Quinhon số 57, tháng 09 năm 1909, trang
149-153.
Compte-rendu 1940-1941, trang 16-21.
Sổ rửa tội giáo xứ Thác Đá, Gia Hựu, Đồng Quả, Đồng Dài.
Thống kê hằng năm về tình hình trong giáo phận.
Hạnh Đức cha Thể, Imprimerie de Làng Sông 1907.
[1] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission Cochinchine 1658-1823,
II, Paris 2000, trang 189.
[2], Vị Tử Đạo người Bélieu JEAN THIÉBAUD, Paris 1988, trang 108.
[3] Compte-rendu et état de la mission de Septembre 1940 à
Septembre 1941, Imprimerie de Quinhon, 1941, tr. 17
[4] Compte-rendu et état de la mission de Septembre 1940 à
Septembre 1941, Imprimerie de Quinhon, 1941, tr. 19
[5] Compte-rendu et état de la mission de Septembre 1940 à
Septembre 1941, Imprimerie de Quinhon, 1941, tr. 16
Tác giả bài viết: TGM Qui Nhơn
Nguồn : Website GP Quy Nhơn (9/8/2017)
Nguồn :
Website GP
Quy Nhơn |
|