|

Đôi nét lịch sử giáo phận Thanh Hóa
< Nguồn : Website GP Thanh Hóa >
GIÁO PHẬN THANH HÓA TRONG
D̉NG LỊCH SỬ GIÁO HỘI VIỆT NAM
1. Giai đoạn năm 1659 - 1932
Ngày 9-9-1659, sau hơn một thế kỷ “hạt giống Tin Mừng” được các
nhà truyền giáo Ḍng Đa Minh, Ḍng Tên gieo văi trên quê hương đất
Việt (1533-1659), sự lớn mạnh của Giáo hội Việt Nam được đánh dấu
bằng việc Đức Thánh Cha Alexandre VII công bố sắc lệnh “Super
Cathedram Principis” thành lập hai giáo phận Tông ṭa: Giáo phận
Đàng Ngoài (Phía Bắc Sông Gianh) với con số tín hữu khoảng 80.000
người, trao cho Đức tân Giám Mục Francois Pallu coi sóc và giáo phận
Đàng Trong (Phía Nam Sông Gianh) với số giáo dân khoảng 20.000 người
trao cho Đức tân Giám Mục Pierre Lambert de La Motte cai quản.
Sau 20 năm thành lập (1679), Địa phận Đàng ngoài được chia thành
hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài trao cho Đức Cha Jacques de Bourges
coi sóc và Đông Đàng Ngoài trao cho Đức Cha Francois Deydier coi sóc.
Thanh Hóa trực thuộc Địa phận Tây Đàng Ngoài.
Năm 1846 Ṭa Thánh chia Địa phận Tây Đàng Ngoài thành hai Địa
Phận: Nam Đàng Ngoài, tức địa phận Vinh và Tây Đàng Ngoài. Thanh Hóa
nằm trong vùng đất của Địa Phận Tây Đàng Ngoài.
Ngày 2-4-1901. Đức Thánh Cha Leo XIII ban sắc lệnh thiết lập Địa
Phận Thanh cũng được gọi là Địa Phận Bắc Kỳ Duyên Hải (Tonkin
Maritime), gồm tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Ninh B́nh – Phát Diệm và huyện
Lạc Thủy của tỉnh Phước Lâm (Ḥa B́nh ngày nay). Vị Giám Mục tiên
khởi là Đức Cha Alexandre Marcou Thành, với 24 Thừa Sai, 48 Linh Mục
Việt Nam, 18 Đại Chủng Sinh, 112 Thầy Giảng, 145 Tiểu Chủng Sinh, 3
nhà Ḍng Mến Thánh Giá và 80.000 Giáo dân trong 27 giáo xứ : 15 tại
Ninh B́nh, 7 tại Thanh Hóa và 5 tại Châu Lào.
Ngày 8-02-1902: Đức Cha Marcou Thành chính thức nhận giáo phận
Thanh, đặt Toà Giám Mục tại Phát Diệm.
2. Giai đoạn từ năm 1932 đến nay
Ngày 26-4-1932: Nghị định của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin về việc
tách riêng Phát Diệm và Giáo phận Thanh Hóa được sự chấp thuận của
Đức Thánh Cha Pio XI.
Ngày 7-5-1932 Sắc chỉ thành lập Giáo phận Thanh Hóa được ban hành.
Theo Sắc chỉ thiết lập, Giáo phận Thanh Hóa gồm 2 tỉnh: Thanh Hóa ở
đất Việt và Sầm Nưa ở đất Lào với diện tích khoảng 21.000km2, dân số
khoảng 1.500.000 người, trong đó có 44.000 người công giáo bao gồm
cả 7.000 người thuộc các dân tộc thiểu số. Lúc ấy nếu không tính 5
xứ thuộc Châu Lào, giáo phận chỉ có 18 giáo xứ, với 16 Thừa Sai, 48
Linh mục Việt Nam, 82 Thầy Kẻ Giảng, một kư túc xá của Ḍng Đức Bà
Truyền Giáo, một Tu viện Ḍng Kín Camêlô.

Ngày 21-6-1932, Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức
Cha Louis de Cooman Hành, Giám mục phó Phát Diệm về làm
Giám Mục Thanh hóa. Ngay từ những ngày đầu về nhận Giáo phận, Đức
Cha Louis de Cooman Hành đă bắt tay vào việc xây dựng giáo phận mới
trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế (khủng hoảng kinh tế thế giới)
và Chính trị (Chiến tranh thế giới thứ II). Trong kiên tŕ và thinh
lặng, Người đă đào tạo được một hàng ngũ giáo sĩ đông đảo, đức độ,
có khả năng và nhiệt huyết. Ngài xây dựng Ṭa Giám Mục, Nhà Chung,
Trường Thử, Tiểu Chủng Viện, trường các Thầy Kẻ Giảng. Ḍng Mến
Thánh giá được Người chăm sóc cách đặc biệt. Hầu hết các giáo xứ đều
có đời sống tương đối ổn định và đạo hạnh. Những thành quả ấy đă trở
thành nền tảng giúp mọi người kiên định niềm tin trước mọi thách đố
của thời cuộc.
Sau hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, t́nh h́nh chính trị Việt
Nam thay đổi, ngày 24 – 3 – 1954, Đức Cha Louis de Cooman Hành phải
từ giă giáo phận về Pháp, ngài qua đời năm 1970 tại Lavais, Avignon,
Pháp. Nhiều linh mục và tu sĩ đă đi vào Miền Nam với chừng 18.500
giáo dân. Số c̣n ở lại Thanh hóa: 27 Linh mục, 15 đại Chủng sinh, 70
tiểu Chủng sinh, 50 nữ tu ḍng Mến Thánh Giá và khoảng 47.000 giáo
dân. Cha Phêrô Phạm Tần được đặt làm Tổng quản Địa phận.

Ngày 17-3-1959, Ṭa Thánh đặt cha Phêrô
Phạm Tần làm Giám mục, hiệu Ṭa Giustiniapoli, Đại Diện
Tông Ṭa coi sóc Giáo phận Thanh Hóa.
Ngày 24-11-1960, Ṭa Thánh thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam và
chia Giáo hội Việt Nam thành 3 giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và Sài G̣n.
Đây là một trong những thời điểm quan trọng nhất để khẳng định sự
lớn mạnh và trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam:
Cũng trong ngày 24-11-1960, Đức Cha Phêrô Phạm Tần được chính
thức đặt làm Giám Mục Chính Ṭa Địa phận. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử,
măi đến ngày 22-6-1975, tức là sau hơn 15 năm, Ngài mới được tấn
phong Giám Mục. Ư chí dũng cảm sẵn sàng xả thân của Ngài đă làm cho
Giáo phận kiên vững trong giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử. Ngày
1-2-1990 Người được Chúa gọi về và được an táng trong cung thánh Nhà
thờ Chính toà Thanh Hóa. Thời Đức Cha Tần có cha Chính Diệm
(1957-1979) và cha Chính Antôn Trần Lộc (1980-1990).

Ṭa Thánh đặt Đức Hồng Y Giuse
MariaTrịnh Văn Căn - Tổng giám mục giáo phận Hà nội, làm
Giám quản Thanh hóa. Nhưng chưa được mấy tháng, người đă đột ngột
qua đời ngày 18-5-1990.
Cha Antôn Trần Lộc được đặt thay thế. Trong 4 năm trời và mặc dù
bệnh tật, Người đă hết ḿnh phục vụ Giáo phận, cho đến khi Đức Cha
Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm được Ṭa Thánh bổ nhiệm từ Đà Lạt về Thanh
Hóa. Cha Antôn Trần Lộc đă qua đời ngày 16-8-1995 và an táng tại đất
thánh Chúa Kitô Vua trong khuôn viên Ṭa Giám Mục.

Đức Cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
: Được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo phận Thanh Hóa ngày
23 tháng 03 năm 1994. Nhận Giáo Phận Thanh Hóa ngày 24 tháng 06 năm
1994. Được Chúa gọi về lúc 0 giờ 15 phút, ngày 09 tháng 06 năm 2003.
Hưởng thọ 74 tuổi ; 18 năm linh mục, 28 năm Giám mục (19 năm làm
Giám mục Đà Lạt, 9 năm Giám mục Thanh Hoá). Trong thời gian giữ
cương vị chủ chăn tại Thanh Hóa, Ngài đă có tinh thần hy sinh, yêu
mến Giáo phận một cách đặc biệt : Ngài lo xây dựng cơ sở vật chất từ
Ṭa giám mục, nhà Ḍng Mến Thánh Giá cho đến nhà thờ các giáo xứ và
các giáo họ; lo xây dựng đời sống tinh thần, đời sống đạo đức và đời
sống vật chất cho giáo dân trong Giáo phận. Mặc dù vào những năm
cuối đời, tuổi già sức yếu, bệnh tật hoành hành, nhưng ngài vẫn lo
chu toàn bổn phận của một vị mục tử nhân hiền. Thi hài của ngài được
an táng tại Nhà Thờ Chính Ṭa Thanh Hóa, ngày 13 tháng 06 năm 2003.

Đức Ông Gioan Baotixita Lưu Văn Khuất
: Sau khi Đức cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm qua đời, Ṭa thánh đă bổ
nhiệm Đức ông Gioan Baotixita Lưu Văn Khuất làm Giám quản Giáo phận
Thanh Hóa. Mặc dù tuổi cao sức yếu, nhưng Đức ông đă làm việc hết
ḿnh cho Giáo phận. Đến ngày 27-10-2003, Đức ông đă được Chúa gọi về,
hưởng thọ 82 tuổi và an táng tại đất thánh Chúa Kitô Vua trong khuôn
viên Ṭa Giám Mục.

Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt
: Sau sự ra đi của Đức ông Giám quản Giáo phận J.B Lưu Văn Khuất.
Ngày 28-10-2003, Toà Thánh đă đặt Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Giám
mục Giáo phận Lạng Sơn, Giám quản Giáo phận Hà Nội, làm Giám quản
Giáo phận Thanh Hóa. Mặc dù bận rất nhiều công việc, đường xá xa xôi,
nhưng Đức Cha đă hy sinh tất cả để về tham dự tĩnh tâm hàng tháng
với linh mục đoàn Giáo phận. Ngài làm Giám quản cho đến khi Đức cha
Giuse Nguyễn Chí Linh về nhận Giáo phận ngày 04-08-2004.

Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh : Vị
Giám mục thứ tư của Giáo phận Thanh Hóa là một người con của Ba Làng,
của Cửa Bạng lịch sử. Được Ṭa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Chính Ṭa
Thanh Hóa ngày 12-06-2004, Ngài đă chọn khẩu hiệu “Xin Cho Họ Nên
Một” để dẫn dắt giáo phận quê nhà bước vào ngưỡng cửa của thiên niên
kỷ thứ ba với nhiều thách đố.
...................................

Lược Sử Giáo Phận
Thanh Hóa
Nguồn :
Vietnamese Missionaries in Asia
A. Lược Sử
Giáo Phận Thanh Hóa
Giáo Phận Thanh Hóa tuy mới
thành lập (7-5-1932), so với một số giáo phận trong giáo tỉnh Hà Nội,
nhưng đă đóng góp những sự kiện quan trọng vào trang sử đầu của Giáo
Hội Việt Nam và đây cũng là những nét chính yếu h́nh thành nên giáo
phận Thanh Hóa.
Theo quyển "Đỗ tộc gia phả"
t́m thấy ở họ Bồng Trung, xứ Kẻ Bền: ông Đỗ Hưng Viễn, người con thứ
hai của cụ Đỗ Biểu, một vị quan lớn của triều đ́nh thời Lê Anh Tông
(1556-1573), đă tiếp xúc với tàu buôn, người Hoa Lang, và theo đạo
Hoa Lang. Cũng theo quyển gia phả này, ông Đỗ Viên Măn (là con
trưởng của cụ Đỗ Cảnh) đă theo đạo Hoa Lang khi có dịp tiếp xúc với
người ngoại quốc cập bến Cửa Bạng (Ba Làng). Như vậy, có thể nói hai
ông Đỗ Hưng Viễn và Đỗ Viên Măn là những tín hữu đầu tiên theo đạo
Công giáo không chỉ ở Thanh Hóa mà c̣n trong cả nước Việt Nam.
Khoảng năm 1590, giáo sĩ Pedro
Ordonez de Cevallos (Tây Ban Nha) trên đường sang Nhật, tàu gặp băo,
dạt vào cửa Lạch Trường (Thanh Hóa), ông đến An Trường, kinh đô của
nhà Lê và đă rửa tội cho chị của vua Lê Thế Tông và khoảng 100 người
khác.
Ngày 19-3-1627, giáo sĩ P.
Marques và Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đặt chân đến Cửa Bạng (xă
Hải Thanh, Thanh Hóa) vào ngày lễ kính Thánh Giuse, đă chính thức mở
đầu cho cuộc truyền bá Tin Mừng ở Việt Nam.
Tháng 4-1627, tại Thanh Hóa đă
có hai nhà thờ An Vực và
Vân No. Đây là những ngôi nhà thờ đầu tiên
tại giáo đoàn miền Bắc.
Từ năm 1659, thành lập giáo
phận Đàng Ngoài, đến giáo phận Tây Đàng Ngoài (1679), giáo phận Tây
(1846), giáo phận Đoài (1895), giáo phận Thanh (1901), sau là giáo
phận Phát Diệm (1924), vùng đất Thanh Hóa đă có nhiều cơ sở và giáo
xứ đông người do các cha ḍng Tên và Hội Thừa Sai Paris phục vụ.
Suốt thời kỳ h́nh thành và
phát triển giáo phận Đàng Ngoài, và đặc biệt tại Thanh Hóa, các thừa
sai, linh mục, tu sĩ và giáo dân sống trên mảnh đất này đă dùng
chính sự sống cùng xương máu để làm chứng cho Tin Mừng Đức Kitô, nổi
bật như Thánh nữ Anê Lê Thị Thành, cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm
(1781-1838), cha Thánh Phaolô Nguyễn Ngân (1790-1840), cha Thánh
Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793-1857), cha Thánh Gioan Đạt (1765-1798).
Ngày 7-5-1932, Ṭa Thánh kư
sắc thành lập giáo phận Thanh Hóa và cử Đức cha Louis de Cooman Hành,
giám mục phó Phát Diệm, làm giám mục tiên khởi giáo phận mới. Ngày
12-9-1932, Đức cha đến nhận giáo phận. Năm 1932, giáo phận Thanh Hóa
có 26 linh mục thừa sai, 48 linh mục Việt Nam, 82 thầy giảng, 18
giáo xứ với chừng 45,000 giáo dân người Việt và 5,000 người dân tộc,
trên tổng số dân khoảng 1,500,000 người. Giáo phận đă có nhà thờ
chính ṭa, nhà chung (ṭa giám mục), một trường tiểu chủng viện xây
năm 1918, tại Hữu Lễ, đào tạo linh mục cho Châu Lào; một trường tập
ở Ba Làng để trở thành tiểu chủng viện và 4 ḍng tu: ḍng Kín, ḍng
Mến Thánh Giá, ḍng Đức Bà Truyền Giáo và ḍng Phanxicô. Ngoài ra,
giáo phận mới cũng đă có một trại phong, một nhà thương và một nhà
dục anh. Sau này có thêm trường trung học Nhà Chung trước khi có cơ
sở mới lấy tên Trương Vĩnh Kư.
Ngày 17-3-1959, cha Tổng quản
Phêrô Phạm Tần nhận sắc phong giám mục, hiệu ṭa Giustiniapoli, giám
quản tông ṭa Thanh Hóa. Ngày 24-11-1960, ngài nhận được sắc phong
chính ṭa Thanh Hóa, nhưng măi đến ngày 26-6-1975 mới được tấn phong
giám mục. Ngài qua đời ngày 1-2-1990. Đức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn
được Ṭa Thánh chỉ định làm giám quản tông ṭa cho đến khi ngài qua
đời ngày 18-5-1990. Từ năm 1990-1994, giáo phận trống ṭa cho đến
khi Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm được thuyên chuyển từ Đà Lạt
về Thanh Hóa và nhận giáo phận ngày 24-6-1994 cho đến 9-6-2003 ngài
từ trần. Đức ông G.B. Lưu Văn Khuất được cử làm giám quản tông ṭa
giáo phận. Ngày 27-10-2003, Đức ông G.B. Khuất qua đời.
Ngày 12-6-2004, Đức ThánhCha
Gioan Phaolô II bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Chí Linh làm giám mục giáo
phận Thanh Hóa.
B. Địa Lư
và Dân Số
Ranh giới: Giáo phận Thanh Hóa
nằm gọn trong tỉnh Thanh Hóa. Đông Bắc giáp Ninh B́nh (Gp. Phát Diệm).
Tây Bắc giáp Sơn La và Ḥa B́nh (GP. Hà Nội). Phía Tây giáp Lào.
Phía Nam giáp Nghệ An (GP. Vinh). Đông giáp Biển Đông.
Tỉnh lỵ hiện nay là thành phố
Thanh Hóa, nằm nghiêng về phía Đông, cách Biển Đông khoảng 20km, và
trên quốc lộ 1A, có xe lửa thông qua. Ṭa giám mục và Nhà thờ Chính
ṭa tọa lạc ngay trong thành phố, sát quốc lộ và xa cách các giáo xứ
về hướng Bắc, Tây, Nam gần bằng nhau, trên dưới 50km. C̣n về phía
Đông giáp biển khoảng 30km. Như vậy, đi theo quốc lộ 1A, Ṭa giám
mục Thanh Hóa cách Ṭa giám mục Hà Nội khoảng 150km và các Ṭa giám
mục Vinh khoảng 130km, c̣n đến Ṭa giám mục Phát Diệm chỉ có 50km.
Ngoài một thành phố, tỉnh Thanh Hóa c̣n có hai thị xă Bỉm Sơn và Sầm
Sơn, với 24 huyện.
Dân số (tính đến ngày
31-12-2002): Dân số chung 3,467,609 người; nam: 1,694,498 người; nữ:
1,773,111 người; sống ở thành thị: 318,380 người; sống ở nông thôn:
3,149,229 người. Dân số Công giáo: 125,697 người.
Hầu hết dân chúng sống bằng
nghề nông, c̣n những dân ven biển sống bằng nghề đánh cá và làm nước
mắm.
Sông núi: Thanh Hóa có hai con
sông lớn: Sông Mă dài 512km, bắt nguồn từ Lai Châu chảy qua tỉnh
Thanh Hóa đổ ra cửa Lạch Sung, Lạch Trường và cửa Hới. Sông Chu dài
300km, chảy từ Lào vào tỉnh. Ngoài ra c̣n có khoảng 20 sông rạch lớn.
Sắc tộc: Ngoài người Kinh, có
trên 20 sắc dân, đông nhất là người Dao, Tày, Thái và Mường. Dân tộc
Mường ở khắp vùng thượng du. Dân tộc Thái và Tày Trắng ở bờ sông mă,
dân tộc Dao ở núi cao.
C. Một số
đặc sắc của Giáo Phận
- Di tích lịch sử:
Cửa Bạng: nơi cha
Marques và Đắc Lộ đặt chân lần đầu tiên vào ngày 19-3-1627, mở đầu
công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài. Nay là giáo xứ Ba Làng, thuộc xă
Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia, cách thị xă Thanh Hóa 45km về phía Nam.
- Nhân vật lịch sử:
Công Chúa Mai Hoa (Maira
Flora) được giáo sĩ Pedro Ordonez de Cevallos, người Tây Ban Nha,
rửa tội vào năm 1590. Cô là chị của vua Lê Thế Tông, đă giữ vai tṛ
nhiếp chính khi vua lên ngôi lúc 7 tuổi. Cô tên thật là Chiêm, rất
đức độ và có ḷng bác ái. Cha Ordonez đặt tên thánh cho công chúa là
Maria Flora. Cô đă thiết lập tại Vạn Lai Sách (nay là xă Phúc Lập,
bên bờ sông Chu) một nữ tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội mà công
chúa làm bề trên cho đến chết. Nhờ ảnh hưởng tốt lành của cô, khoảng
100 người trong hoàng tộc và phi tần cung nữ đă theo đạo. Ở khu đất
cố đô An Trường này vẫn c̣n có Giếng Gia Tô, Xóm Gia Tô và một chỗ
gọi là Nền Thờ, có lẽ để nhớ ơn công chúa (x. Lịch sử và du hành thế
giới, 1628, của cha Ordonez de Cevallos; Lê Triều Thượng cổ truyền
giáo, tr. 11; và Lịch sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, tr. 113-115. Đại
Việt Thiện Bản).
(dựa theo Niêm Giám 2005
của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)
Nguồn :
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnchurch/lsthanhhoa.htm

|
|