
Lược
sử Giáo xứ Cẩm Trường
1. Danh Xưng “Cẩm Trường”
Vào khoảng năm 1629 và đặc biệt vào đầu thế kỷ thứ 18, từng nhóm
người Công Giáo định cư rải rác từ Thuận Nghĩa, tọa lạc trên các
trục đường bộ hợp với đường thủy, từ sông Mai Giang đổ xuống sông
Hàu, sông Cầu đổ về, qua sông Thai, hợp với ḍng kênh Dâu, xuôi về
cửa lạch Quèn (Mành Sơn), hợp thành giáo xứ “Cẩm Trường”, trông như
thể một dải gấm dài, uốn lượn quanh co.
Theo sử sách kể lại, th́ danh xưng “Cẩm Trường” (“cẩm” là “gấm
vóc”, “trường” là “dài”) có từ đầu thế kỷ 18; cụ thể là vào năm
1732, khi họ nhà xứ được thành lập. Nhưng, trung tâm mục vụ lại được
các Cố Tây đặt ở Thuận Nghĩa cho gần trục đường bộ; về sau, mới dời
xuống họ Kẻ Gấm (tức họ Cẩm Trường ngày nay). Mặc dù thay đổi địa
chỉ, nhưng danh xưng vẫn là “Cẩm Trường”. Đến năm 1923, các họ đạo
từng vùng bắt đầu tách lập xứ mới; riêng vùng Xuân Yên vẫn duy tŕ
danh xưng “Cẩm Trường” cho đến ngày nay.
Cũng cần phải nói thêm rằng, nếu xem từng nhóm người này về định
cư nơi đây như một họ đạo, th́ lúc này giáo xứ Cẩm Trường có tất cả
34 giáo họ: Cẩm Trường, Đồng Lăng, Hội Yên, Yên Hoà, Du Xương (Trang
Họ), Quư Vinh, Dị Lệ, Thuận Nghĩa, Yên Lưu, Hạ Nguyên, Thượng Nguyên,
Trung Nguyên, Thuận Giang, Tân Lập, Thanh Dạ, Cự Tân, Xuân An, Lộc
Thuỷ, Mành Sơn, Văn Phú (Quỳnh Tiến), Tân Yên, Ngọc Thanh, Ngọc Sơn,
Văn Thai, Văn Trường, Văn Cả, Thia Thia (Vịnh Giang), Đồng Lầy (Phú
Xuân), Đồng Xuân (Quang Tĩnh), Đồng Ầm, Đập Bể (Nghĩa Thành), Đồng
Lèn, Tân Hội (Tân Nghĩa) và Vịnh Yên (An Hoà).
2. Thời Kỳ Bi Hùng
Để t́m biết và thấu đạt lịch sử giáo xứ Cẩm Trường, trước hết
phải nói đến nguồn gốc họ đạo cùng tên.
Năm 1629, nơi đây có 5 gia đ́nh đầu tiên lănh nhận đức tin Công
giáo: 1) ông Trần Vũ; 2) ông Nguyễn Vi; 3) ông Nguyễn Hữu Khuyên; 4)
ông Nguyễn Thuấn; và 5) ông Vũ Vượng (quê ở Đông Thành, thuộc phủ
Diễn Châu). Lúc bấy giờ, họ ngụ cư trên đất Thanh Sơn (Ng̣), do Kẻ
Quát quản lư; họ sống trên cồn đưng cỏ nhọn, lấy cuốc cày làm kế
sinh nhai; và v́ chưa có nhà thờ, nên họ mượn tạm nhà ông Nguyễn Hữu
Khuyên làm nơi thờ phượng, cầu kinh sớm tối; thời gian này kéo dài
khoảng 100 năm.
Đến 1732, nơi đây mới lập phường Kẻ Gấm và xây dựng nhà thờ của
họ cùng tên. Năm 1762, có ông Ngô Đ́nh Lại, gốc Yên Định, Thanh Hóa,
di cư đến đây và lấy một người vợ trong ḍng họ cha Nghiệm là cháu
chắt của ông.
Năm 1798, v́ vua Cảnh Thịnh cấm đạo rất nhặt, họ phải mua 8 mẫu
đất ở Quư Ḥa, nằm sát làng Trung Yên (tức họ Đồng Lăng ngày nay),
để nương tựa vào nhau. Sau khi dời dân và chuyển nhà thờ về đất Quư
Ḥa (nằm ngay dằm họ Trường Cựu bây giờ), để lập làng, có con dấu,
có lư trưởng và phó lư quản cai, th́ cơ sở mục vụ truyền giáo cũng
được thiết đặt tại đây.
Hạt lúa ḿ rơi xuống đất có thối đi th́ mới sinh nhiều bông trái.
Vào đầu thế kỷ 19, thời các triều đại nhà Nguyễn bách hại đạo Công
giáo rất ác liệt, nhiều chứng nhân đă anh dũng hy sinh v́ niềm tin
vào Chúa Kitô; sự kiện này càng ngày càng làm cho nhiều người lương
dân và ngoại giáo tin nhận Đạo thánh Chúa hơn.
Vào đầu thế kỷ này, các chi tộc Nguyễn-Trần (Quỳnh Bá),
Phan-Nguyễn (Quỳnh Đôi), Trịnh, Hồ, Phạm, v.v., từ nhiều nơi đổ về
ngày càng đông. Cho nên, đến năm 1847, làng phải gom đủ số tiền
khoảng 300 quan, để tậu thêm thẻ đất thuế đinh của làng Thượng Yên (thẻ
đất này phải vào tới tận cố đô Huế mới làm được).
Biết làng có tiền, v́ ham tiền và nhân cơ hội Vua Minh Mạng đang
riết ráo bắt bớ đạo Chúa, tên Ngoạt cùng làng đă lên báo cáo với
Đoàn Tổng. Khoảng canh 5, chúng cho người xuống bắt Cha Thân hiện
đang quản xứ. Tờ mờ sáng hôm đó, khi Cha đang dâng lễ, tên Ngoạt làm
hắng 3 tiếng báo hiệu cho Đoàn Tổng vây bắt ngài và lấy luôn cả chén
đĩa thánh. Thấy thế, giáo dân liền xông vào bảo vệ, cứu được Cha và
thu lại những ǵ đă mất; c̣n tên Ngoạt th́ bị ngài chúc dữ: ho tới 3
đời mà chết.
Năm 1848, sau khi tậu được 15 mẫu đất của làng Thượng Yên, giáo
dân bắt đầu san bớt lên đó định cử và lập làng mới, có tên gọi “Xuân
Yên”; vùng đất này thuộc xă Quỳnh Yên, tổng Phú Hậu, chứ không thuộc
Quư Ḥa, tổng Thanh Viên nữa.
Năm 1855, giáo xứ được Cha Gioan Baotixita Thái đến tiếp quản.
Lúc này, vua Tự Đức bách đạo rất ác liệt. Vua cho thuộc hạ lùng sục
khắp nơi, bắt bớ các linh mục và cả giáo dân, nên cả chủ chăn lẫn
đoàn chiên phải bỏ trốn nhiều nơi trong các làng lương. Nhiều người
bị bắt và bị đày họ lên huyện và tỉnh, và đă anh dũng tử v́ đạo Chúa.
Trong cảnh hỗn mang loạn lạc này, thánh đường chẳng có ai trông
nom. V́ thế, tên Huề, người cùng làng, đă rủ thêm 7 tên người Thượng
Yên, vào nhà thờ đào bới khắp nơi để kiếm tiền. Khi xăm nhằm huyệt
mộ Cha Nhân, tưởng là ḥm tiền, chúng liền cạy nắp, tḥ tay vào, sờ
thấy toàn xương liền bỏ chạy. Giáo dân ở Bút Luyện và các làng kế
cận trở về thấy thế, liền cải táng ngài chu đáo. Phần tên Huề về sau
bị vẹo tay và mắc bệnh mà chết.
Đến thời vua Tự Đức, làn sóng bách đạo vẫn dâng lên cuồn cuộn;
nhiều giáo hữu bị bắt, bị giam cầm, chịu tra tấn dă man và bị khắc
chữ “Giatô” trên trán.
Năm 1862, bằng an trở lại, người dân Xuân Yên bắt đầu trồng tre
bao lũy xung quanh, để bảo vệ làng và xây dựng nguyện đường. Lúc này,
giáo họ Kẻ Gấm là một làng có hai thôn, hai hương bộ và hai ông từ:
nhà thờ mới do ông câu Nguyễn Giới coi sóc; c̣n nhà thờ cũ do ông từ
Ngô Đ́nh Lăng đảm nhiệm.
Sau 2 năm yên hàn, sóng gió lại nổi lên. Năm 1864, Văn Thân tiếp
tục băt bớ những người theo Chúa. V́ là giáo toàn ṭng ngày càng
đông số, lại gan dạ bảo vệ được các nhà truyền giáo, nên Trung tâm
Mục vụ Truyền giáo, ở Thuận Nghĩa được Ṭa Giám Mục cho phép dời
xuống giáo họ Kẻ Gấm, mà sau đó một năm, năm 1865, chính thức gọi là
giáo xứ “Cẩm Trường”, do Cha xứ đầu tiên, Cha Giuse Huấn quản nhiệm.
Mặc dù Văn Thân chia vùng ḱm chế, bắt bớ đạo thánh, nhưng Trung
tâm Mục vụ Truyền giáo của giáo xứ cần phải được tiến hành xây dựng.
Năm 1869, Bề Trên sai Cha Tùy đến làm phó xứ, giúp Cha già Huấn xây
dựng nhà thờ. Ngôi nhà thờ xứ 8 gian đầu tiên, thiết kế theo lối
“Chồng Diêm”, với kích thước: 22m dài x 9m rộng x 7,8m cao, đă được
khánh thành năm 1871 (nằm ngay vị trí nhà ông Ḥa Thuận ngày nay).
Lúc này, nhóm Văn Thân Quỳnh Lưu đă triệu tập giáo dân Cẩm Trường
lại, bắt dợ bỏ nhà thờ; nhưng họ không chịu, nên bị chúng giam giữ 2
tháng trời. Cha Tùy phải đích thân lên thương thảo với nhóm này.
Ngài bị chúng chất vấn và ra lệnh: Không ai được phép làm nhà “Chồng
Diêm”, mẫu nhà đó chỉ dành cho vua chúa mà thôi. Nhưng, ngài đă khôn
ngoan trả lời: “Tôi không làm nhà ‘Chồng Diêm’ mà làm nhà ‘Thiên
Diêm’ (tức là nhà Chúa Trời Ngự). V́ thấu t́nh đạt lư, dù rất tức
giận, nhưng bọn chúng phải miễn cưỡng thả những người Cẩm Trường bị
bắt.
Năm 1874, phong trào Văn Thân ở Nghệ An lại nổi lên, lấy tên là
“B́nh Tây Sát Tả”. Cũng trong năm đó, triều đ́nh đă kư Ḥa ước Giáp
Tuất (1874) cho phép giảng đạo. V́ an sinh của xă tắc, vua ban sắc
chỉ cho phép Đức Giám mục Hậu đi dẹp loạn Văn Thân. V́ thế, Cha
Thiện đă đặt ông Tuần Giới (họ Cẩm Trường) và ông Tuần Pớc (họ Đồng
Lăng), chỉ huy sáu đội quân để bảo vệ làng.
Năm1876, vừa mới thụ phong, Cha Đức được Bề Trên điều về làm phó
Cha Thiện. Lúc này, giáo xứ Cẩm Trường có 34 nhóm-họ; nên việc làm
phúc hầu như quanh năm. Có lần, Cha Đức đi làm phúc ở giáo họ Phú
Yên và nghỉ lại đó. Ngài bị bọn Văn Thân Quư Ḥa bao vây, thoát
không được bởi Phú Yên quá yếu. Cẩm Trường nghe tin liền xuống giải
vây và rước ngài về nhà xứ an toàn.
Cũng trong năm đó, có tên tướng Đề Niên, quê ở Phù Mỹ, đem quân
xuống sát hại vùng Cẩm Trường. Lúc đó, có mấy người đàn anh ra mặt
đối phó, như ông Kí Dũng (Đồng Lăng), ông Lư Phú (Trường Cũ), v.v.
dùng mác cố thủ và dùng tre vót nhọn lia trúng đùi Đề Niên làm hắn
bị trọng thương. Thuộc hạ thấy vậy bỏ chạy thoát thân, Đề Niên bị
bắt. Được hai Cha đă tha mạng, hắn đă hậu tạ các ngài một con chiến
mă tốt nhất.
Vụ này chưa yên, vụ khác lại đến. Năm 1877, Tú Mớc, một viên
tướng giỏi đă từng chinh chiến nhiều nơi, quê ở phủ Diên Châu, hôm
nào cũng cưỡi ngựa đi qua làng để quan sát, lên Quỳnh Lưu chiêu binh
tập luyện, lập kế sách tối hôm nọ xuống sát hại Cẩm Trường. Nhận
được mật báo, ngay chiều hôm đó, hai người đàn anh là ông Xoang và
ông Xuyên và một số anh em khác đă mai phục sẵn, chặn đánh khi tướng
Mớc đi qua. Bị tiếp đón bất ngờ, Mớc tuốt đánh gươm đôi, ngựa chạy
thụt lui vấp phải dây khoai té ngă. Nhanh như chớp, ông Binh Vũ lao
đến chặt đầu hắn, đem về treo ngọn pheo cho mọi người biết.
Về mặt giáo lư, thời kỳ này, giáo xứ tổ chức thi khảo ba năm một
lần, tại ba địa điểm khác nhau: năm thứ nhất ở Cẩm Trường, năm thứ
hai ở Thuận Nghĩa và năm thứ ba ở Thanh Dạ. Một hôm, Cha Đức đi dự
khảo giáo lư ở họ Thanh Dạ trở về, qua Quỳnh Đôi, bị bọn côn đồ ra
chặn đường đánh. Ngài đă dùng cây súng gỗ không có đạn nhe doạ bắn
chúng và thụt lui về tới Đồng Chùa. Nghe tin, Cầm Trường lên đánh
hiệp một; Thanh Dạ xuống đánh hiệp hai, lùa chúng lên tận kênh Hói
Nồi, và giải cứu ngài trở về nhà xứ b́nh an vô sự.
Nhận thấy đời sống bổn đạo ở xứ Quỳnh Lưu bất ổn như thế, nên năm
1877, Đức Cha Hậu đă dùng sắc chỉ Vua ban, cho phép Cha Thiện và Cha
phó Đức đem sáu đội quân do hai ông: Tuần Giới và Tuần Pớc cầm đầu,
đi dẹp loạn Văn Thân, tại một số nơi thuộc phủ Diễn Châu và mấy điểm
chính trong vùng Quỳnh Lưu. Từ đó, Văn Thân Quỳnh Lưu không c̣n dám
hà hiếp đạo Công Giáo nữa.
Năm 1886, Văn Thân lại nổi lên lần thứ hai. Một hôm, trên đường
đi làm phúc ở họ Sơn Trang, Cha Đức đă bị bọn Văn Thân bao vây.
Trong lúc những người đàn anh đi giải cứu Cha, ở nhà có bọn Văn Thân
Quỳnh Đôi và Thượng Yên xuống quậy phá. Lực bất ṭng tâm, thiếu vắng
anh tài, giáo dân chỉ biết đem ảnh Đức Mẹ Mân Côi ra nghênh chiến,
vào nhà thờ cầu nguyện, đọc kinh, lần hạt, nài xin Mẹ đoái thương
cứu giúp đoàn con cái.
Một phép lạ đă xảy ra! Thấy một nữ tướng cưỡi ngựa bạch, mặc áo
trắng, chỉ huy đoàn binh đông vô số, từ trời ngự giá, bọn chúng
khiếp đảm, bỏ chạy toán loạn. Văn Thân Quỳnh Lưu tự kết liễu đời
ḿnh. Kể từ đó, giáo xứ Cẩm Trường đă nhận Mẹ Mân Côi làm Quan thầy;
bà con giáo dân hăng hái lập tổ Thánh Mẫu, lần hạt chung với nhau
trong các gia đ́nh cho tới ngày nay.
Năm 1887, một cơn băo to đă làm cho nhà thờ Chồng Diêm và nhiều
nhà thờ trong xứ bị sập, riêng nhà thờ Hội Yên v́ mới làm xong nên
chỉ bị di xịch một dằm cột. Sau đó, Cha Đức cho dời nhà thờ xứ xuống
địa sở hiện nay và chuẩn bị xây cất thánh đường Mân Côi mới to lớn
hơn.
3. Thời Kỳ Hưng Phát
Năm 1884, Yên Ḥa gồm 4 giáo họ tách lập xứ mới. Đây là con đầu
ḷng của xứ mẹ Cẩm Trường, nhưng măi tới năm 1889, mới có Cha Hoàng
quản nhiệm. Năm 1913, Đức Cha Bắc nhậm chức Giám mục, chăn dắt Giáo
phận Vinh thịnh vượng. Giáo xứ truyền giáo Cẩm Trường cũng có nhiều
đổi thay: vào dịp lễ Phục Sinh năm 1914, Thuận Nghĩa gồm 15 giáo họ
từ Thuận Giang lên tới Cồn Cả và Nghĩa Thành; Thanh Dạ gồm 4 giáo họ;
và Mành Sơn gồm 3 giáo họ, rời xa xứ mẹ, tách lập thành 3 giáo xứ
mới.
Cũng trong năm đó, ngôi nhà thờ xứ thứ 2 (13 gian gỗ lim, 38m dài
x 14m rộng x 18m cao), do cha Gioan Baotixita Đức sắm gỗ, và Cha
Phêrô Ái xây dựng trường kỳ 8 năm, được Đức cha Bélois Bắc chủ sự
cắt băng khánh thành và làm phép; c̣n nhà thờ “Chồng Diêm” cũ đem
làm nhà xứ; và hiện nay là nhà truyền thống, năm sau khu vực nhà
trường phía Tây ngôi thánh đường này.
Năm 1920, Tân Yên lại tiếp bước các giáo xứ anh, ĺa xa xứ mẹ,
tách lập xứ mới. Sau đó 3 năm (năm 1923), người em út là giáo xứ
Song Ngọc mang đi 4 giáo họ, ra đi xây dựng tổ ấm mới. Lúc này, xứ
mẹ chỉ c̣n lại 3 giáo họ sát cạnh nhau là: Cẩm Trường, Đồng Lăng và
Hội Yên. Đến năm 1990, Cha Phanxicô Hồ Đức Hoàn xin phép Đức Cha
Phêrô Trần Xuân Hạp, cho xóm nhà thờ Cẩm Trường cũ (gọi tắt là
“Trường Cũ”), kính thánh Gioan Tẩy Giả từ năm 1874, tách riêng thành
giáo họ Trường Cựu.
Ngược ḍng thời gian, chúng ta cùng nhau lần t́m về các Đấng chăn
tiền nhiệm. Trước ngày thành lập, giáo xứ có 22 Linh mục Thừa sai
chánh coi sóc; trong đó, có Cha Ambrôsiô Nhân là Thừa sai Pari từ
trần vào năm 1834 ở nhà thờ cũ của giáo họ Trường Cựu. Năm làm nhà
thờ xứ 1914, giáo dân đă căi táng và chôn cất ngài trong nền nhà thờ,
nay được tái lập mộ chí cùng với quư Cha quá cố, ở khu vực nghĩa
trang phía Tây-Bắc khuôn viên thánh đường.
Từ ngày lập xứ đến nay, Cẩm Trường có 19 linh mục kế tiếp nhau
quản nhiệm, có những Cha quản xứ lâu năm như: Cha G.B. Đức 29 năm,
Cha Phêrô Ái 27 năm, Cha Phanxicô Hồ Đức Hoàn 35 năm, v.v.; trong số
đó có 7 Cha đă yên nghỉ tại giáo xứ. Sau đây là danh sách các Linh
mục chánh-phó xứ qua các thời kỳ:
Cha Giuse Huấn: 1867-1876; Cha Giuse Tuỳ phó 1869-1872; Cha Giuse
Thiện: 1874 phó, 1876-1884 chánh; Cha G.B. Đức: 1876 phó, 1884-1906
chánh; Cha Phêrô Diệm: 1884-1885 phó; Cha Phêrô Ái: 1906-1933 từ
trần; Cha Phêrô Hoan: 1931-1933 phó; Cha Phêrô Đoài: 1933-1934 phụ
trách; Cha Anrê Thế: 1935-1938 từ trần; Cha G.B. Ninh: 1938-1940;
Cha G.B. Đính: 1940-1943; Cha P.X. Khiêm: 1943-1944; Cha Phêrô Đ́nh:
1944-1948 từ trần; Cha Giuse Đôn: 1944 hưu, 1948-1959 từ trần; Cha
Phêrô Hậu: 1959-1961 phụ trách; Cha P.X. Hồ Đức Hoàn 1961-1995; Cha
Antôn Nguyễn Đ́nh Thăng: 1996-1997 phụ trách; Cha Phêrô Lê Nam Cao:
1998-2006; và Cha Antôn Nguyễn Văn Thanh: 2006, đương nhiệm.
Giáo xứ Cẩm Trường có 21 linh mục con cái trong 34 giáo họ khi
chưa phân xứ, và có 13 linh mục con cái trong 4 giáo họ hiện nay;
trong đó, có Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quế đă tử v́ đạo, ngày 14-11-1962,
tại trại tù Quyết Tiến (Cổng Trời, Hà Giang); 5 Cha qua đời tại quê
hương; và có Cha Già Giuse Nguyễn Hồng Thanh đang sống đến nay đă 81
tuổi.
Về bậc tu sĩ nam nữ, toàn giáo xứ có 5 đại chủng sinh; 22 vị khấn
tạm và 28 vị đă khấn trọn đời tại các Ḍng tu; trong đó, có 9 vị đă
qua đời, 4 vị đang du học ở: Italia, Pháp, Mỹ và 14 vị đang tu học
trong nước.
Từ khi thành lập đến nay, giáo xứ Cẩm Trường đă trải qua 21 khóa
Ban Hành Giáo và nhiều Ban ngành đoàn thể khác, thay nhau cộng tác
với Cha sở, để điều hành giáo xứ. Con số giáo dân cũng tăng trưởng
theo thời gian và đạt tới con số 4856 nhân danh, tính đến hết năm
2009. Ấy là chưa kể, số giáo dân ra đi khai lập rất nhiều xứ-họ,
trong Nam cũng như ngoài Bắc, mà chúng con không sao kể hết được.
Cách nay mấy năm, ngôi thánh đường Đức Mẹ Mân Côi cũ chật hẹp, đă
bị xuống cấp trầm trọng, không đảm bảo an toàn cho các lễ nghi phụng
vụ và sinh hoạt tôn giáo nữa. Qua bao tháng năm, với ḷng mong mỏi,
đợi trông của bà con giáo dân Cẩm trường muốn xây một ngôi thánh
đường mới, Cha quản xứ tiền nhiệm, Phêrô Lê Nam Cao, đă lo thủ tục
giấy tờ và giải phóng một phần mặt bằng, để làm đà tiến cho Cha xứ
tân quản nhiệm, Antôn Nguyễn Văn Thanh, bắt tay vào kiến thiết.
Thế là, giấc mơ dài của bao thế hệ tiền nhân nối tiếp nhau nay đă
trở thành hiện thực. Sau 40 ngày đêm miệt mài phần móng và đến ngày
05-03-2007, Đức Giám mục giáo phận, Phaolô Maria Cao Đ́nh Thuyên, đă
chủ sự thánh lễ đặt viên đá đầu tiên cho ngôi thánh đường Mân Côi,
với kích thước: dài 60m x rộng 20m x cao 48m (tính từ tháp).
Trong suốt quá tŕnh thi công công tŕnh này, cộng đoàn giáo xứ
gặp không ít những khó khăn về nhiều mặt, nhất là vấn đề tài chính;
v́ lúc đầu, họ chỉ có trong tay 680 triệu đồng-số tiền này chưa đủ
chi phí cho phần móng (chi phí móng hết 1 tỷ đồng). Nhưng, nhờ t́nh
thương bao la của Thiên Chúa, qua lời bầu cử đắc lực Mẹ Quan thầy,
cùng với lời cầu nguyện liên lỉ và sự quảng đại giúp đỡ của Đức Giám
mục Giáo phận, quư Cha quê hương, quư Hiệp hội nước ngoài và quư ân
nhân xa gần, sau 1100 ngày, ngôi thánh đường mới của giáo xứ đă được
hoàn thành, với tổng kinh phí lên đến 7 tỷ đồng.
Hôm qua, ngày 10 tháng 03 năm 2010, chính Đức Giám mục Giáo phận,
đă chủ thánh lễ cắt băng khánh thành và cung hiến ngôi thánh đường
của Mẹ Mân Côi này cho Thiên Chúa, để làm nơi phượng tự xứng đáng,
nhất là khi cử hành các phụng vụ thánh.
Hy vọng rằng, đại lễ này sẽ nhắc nhớ cộng đoàn hiện diện, cách
riêng giáo dân giáo xứ Cẩm Trường rằng: Chúng ta cần siêng năng lui
tới ngôi thánh đường bằng gỗ đá này để điểm tô, ǵn giữ đền thờ tâm
hồn của mỗi chúng ta, bằng chính nỗ lực sống theo và sống đúng Tin
Mừng Chúa Kitô, như thánh Âugustinô đă t?ng khuyên dạy trong một
thánh lễ cung hiến thánh đường: “Chúng ta đến đây để cung hiến nhà
cầu nguyện; nhưng, đừng quên rằng nếu hôm nay nhà này trở thành nhà
cầu nguyện, th́ tâm hồn anh chị em phải luôn luôn là nhà của Thiên
Chúa”.
Hiểu như thế, ngôi nhà thờ bằng gỗ đá này sẽ đứng đây như biểu
tượng nhắc nhớ, hướng dẫn và giáo huấn chúng ta, để mỗi người ngày
càng trở nên kitô hữu hơn và mỗi ngày thêm giống Chúa Kitô hơn.
Trích trong bài : " Khánh thành
và cung hiến ngôi thánh
đường Đức Mẹ Mân Côi của giáo xứ Cẩm Trường
"
Nguồn :
VieCatholic
Xem thêm : [
Giáo xứ Cẩm Trường trong lịch sử truyền giáo Bắc Nghệ An ]
Chi tiết bổ sung xin gởi về
giaoxugiaohovietnam@Yahoo.com

............................................................

Giáo Hội dành riêng tháng 5 để bày tỏ ḷng tôn kính, mến yêu đặc
biệt dành cho Đức Maria. “Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật
thà. Dâng tiến hoa ḷng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa
ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua ḷng mến yêu Mẹ không nḥa…”,
Những ca từ này đă trở nên rất đỗi thân quen đối với mỗi người
Công Giáo Việt Nam từ bao đời nay mỗi độ tháng Hoa về. Trong
tháng này, đoàn con cái hái những cánh hoa khoe sắc về dâng
lên Mẹ, bởi thế, người Công Giáo Việt Nam, còn gọi tháng
Năm với cái tên bình dị “tháng Hoa”. Hợp cùng những đóa hoa
mà Giáo Hội đang tiến dâng lên Mẹ, đoàn con cái giáo xứ
Cẩm Trường đã tổ chức cung nghinh và dâng hoa kinh Mẹ vào
tối thứ 7, 16/5/2015.
Lúc 19h00, bà con giáo dân đã tề tựu đông đủ tại khuôn
viên nhà thờ của giáo họ mình. Sau đó, từng giáo họ đã
làm việc kính Đức Mẹ trọng thể, rồi khởi hành đoàn rước
tiến lên nhà thờ xứ, hợp đoàn cùng với các giáo họ khác.
Đoàn rước dài gần 2km, với 4 kiệu cung nghinh Mẹ của 4 giáo
họ. Đoàn người nối tiếp nhau, trên tay cầm những đóa hoa
tươi xinh và nến sáng, bước theo Mẹ trên lộ trình ṿng quanh
giáo xứ dài hơn 3km. Đoàn rước cung nghinh Mẹ hôm nay hội tụ
đông đủ các thành phần trong giáo xứ: Cha quản xứ Fx. Phan Đình
Giáo, quư tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể và mọi người
trong giáo xứ, điều đó thể hiện lòng yêu mến mà đoàn con
cái dành cho Mẹ. Dọc 2 bên đường trên suốt lộ trình cung
nghinh, có rất nhiều bàn thờ kính Mẹ đã được bà con chuẩn
bị và trang trí. Ở mỗi bàn thờ như thế, đoàn con cái lại
có cơ hội được chiêm ngắm lại dung nhan và nhân đức của Mẹ,
để rồi cùng cất cao lên bài ca ngợi khen Mẹ – người phụ nữ
có phúc vượt trên hết thảy những người nữ. Đoàn rước bước
đi trong bầu khí linh thánh và trang nghiêm, với những tràng
chuỗi mân côi và những bài suy niệm về cuộc đời Mẹ để
hướng đoàn con cái noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.
Cuộc cung nghinh được kết thúc bằng phần diễn nguyện dâng
hoa kính Mẹ tại tiền sảnh nhà thờ xứ. Những điệu múa nhịp
nhàng uyển chuyển theo những khúc ca tung hô Mẹ. Từng làn khói
trầm tỏa hương bay cuộn về Thiên quốc nơi Mẹ đang đoái nhìn đoàn
con đang lữ hành dưới thế. Những ánh nến lung linh như đốt
lên lòng yêu mến mà đoàn con cái dành cho Mẹ. Những cánh hoa
thắm xinh như muôn lời ngợi khen ca vang các nhân đức cao vời của
Mẹ: một đời tín trung như sắc tím, khiết trinh như màu hoa trắng
ngần, rực cháy t́nh yêu như đóa hồng đỏ thắm và xanh ngát một màu
tin yêu hi vọng nơi Thiên Chúa. Kế tiếp phần diễn nguyện, cha
quản xứ, quư tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể cùng cộng đoàn đă
dâng lên cho Mẹ những đóa hoa thắm xinh.
Buổi cung nghinh và dâng hoa kính Mẹ đă khép lại, những gì
đọng lại trong mỗi người con Cẩm Trường là t́nh yêu mến và
tôn sùng Mẹ. Ước mong, mọi người con Cẩm Trường sẽ luôn chạy
đến cùng Mẹ trong những cơn thử thách, nương tựa Mẹ trong
những lúc hoạn nạn, để rồi Mẹ sẽ đồng hành và nâng đỡ cho
đời sống đức tin của mỗi người. Nhờ đó cuộc đời mỗi người cũng
sẽ được tươi nở cùng muôn hoa để ca mừng mến yêu Mẹ và cùng với
Mẹ gieo vãi ươm trồng những nụ hoa muôn sắc: đó là những việc
lành phúc đức, những hy sinh bác ái trong âm thầm và khiêm tốn.