Như bao làng quê trên mảnh đất mang
tên Việt Nam nầy, cái tên Văn Hạnh cũng có một lịch sử h́nh thành
và phát triển, với bao thăng trầm băo táp nhưng cũng đầy khí phách
hào hùng đă được sử sách lưu danh. Một người con Văn Hạnh, đă phác
họa bức tranh quê hương qua những vần thơ như sau:
Văn Hạnh ơi! Quê hương yêu dấu
Mảnh hồn thiêng ghi dấu ấn một thời
Sông Giá xanh uốn khúc từ lâu đời
Bao bọc lấy xóm làng như giải lụa
Đường tỉnh lộ Cầu Cày về Hộ Độ
Cũng nhịp nhàng uốn khúc với sông xanh
Đê ven sông áo cỏ mướt long lanh
Tựa phượng múa rồng bay về quê cả .
Thực vậy, từ nơi mảnh đất này, lớp
lớp thế hệ đă sinh ra, lớn lên, cống hiến để rồi cuộc đời của họ,
cách này hay cách khác, đă hóa thân để làm nên một phần trong chất
Văn, chất Hạnh mà mỗi lần được cất lên thành tiếng, đều gợi cho
người ta một cảm giác ǵ đó về sự lịch lăm, đầy đặn, thân thương
và vô cùng đẹp đẽ. Cũng như cầu vồng có lẽ sẽ không đẹp nếu chỉ có
một vân, một sắc, làng quê Văn Hạnh, xóm đạo Văn Hạnh có lẽ sẽ
không trở thành một đặc sắc ‘giai phẩm’, nếu chỉ có một bề b́nh
yên phẳng lặng.
I. Địa dư và lịch sử
- Trên b́nh diện địa đồ, Văn Hạnh
tọa lạc trên một địa bàn khá lư tưởng, phía Tây Bắc là quốc lộ 1A;
Đông Nam là trục lộ Cầu Hộ Độ, Tây Nam là giao lộ Nam Cầu Cày và
Đông Bắc có ḍng sông Cày chảy qua. Và ngày hôm nay, khi thành phố
Hà Tĩnh mở rộng biên độ, Văn Hạnh là cửa ngơ dẫn vào nội đô.
- Trên b́nh diện tôn giáo, Văn Hạnh
nằm trong vùng có mật độ khá dày các giáo xứ toàn ṭng. Chưa đầy 2
km về hướng Tây Nam là giáo xứ Chân Thành; nh́n xuống hướng Đông
Bắc, cách nhà thờ Văn Hạnh hơn 1 km là tháp chuông thánh đường An
Nhiên, nh́n lên hướng Tây Bắc, bên kia sông Cày là giáo xứ Lộc
Thủy…
- Về phương diện lịch sử, nơi đây
được kể là một trong những trung tâm đă diễn ra nhiều sự kiện,
nhiều phong trào quan trọng trong lịch sử Giáo hội Việt Nam nói
chung, Giáo phận Vinh nói riêng. Nổi bật nhất là việc tiếp nhận
ánh sáng Tin mừng ngay từ những buổi đầu; biến cố Văn Thân năm
1885; phát chẩn cứu đói năm 1945; hoạt động của Liên Đoàn Công
Giáo những năm 1946 – 1951.
II. Hành tŕnh lịch sử:
1, Cửa Sót, điểm dừng chân chớp
nhoáng
Cho đến hôm nay, chưa có một tài
liệu nào cho biết một cách cụ thể về thời gian Văn Hạnh được gieo
giống Tin mừng, tuy nhiên cũng phải là vơ đoán nếu nói rằng, nơi
đây đă sớm được đón nhận đức tin, có thể là ngay trong những ngày
đầu, khi các thừa sai ḍng Tên đặt chân lên địa bàn Nghệ - Tĩnh -
B́nh. Khẳng định này căn cứ vào lịch sử đạo công giáo trên địa bàn
Kẻ Nhím mà Văn Hạnh từ khi c̣n là một giáo họ nhỏ, đă được chọn
làm nơi đặt trụ sở hạt đường và được gọi là Nhà Chung Văn Hạnh.
Nói về sự kiện gieo giống Tin mừng
trên khu vực về sau được gọi là Kẻ Nhím, thừa sai Đắc Lộ trong
quyển Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài (Alexandre de Rhodes,
Histoire de Royaume du Tokin, Lyon) có đoạn: “Từ tỉnh này (tức
Bố Chính Quảng B́nh) chúng tôi nghĩ là có ích hơn nếu chúng tôi
trở về Nghệ An, chúng tôi mới bỏ trước đây.
Nhà thứ nhất chúng tôi ở là nhà
hai giáo dân sốt sắng, Phêrô và Anrê. Hai ông rất nhiệt thành
chinh phục tất cả đồng hương và hết sức chuẩn bị tinh thần cho mọi
người, đến nỗi chúng tôi không c̣n phải vất vả thêm lời giảng dạy,
chúng tôi rửa tội cho một trăm mười hai người trong ba ngày cư trú
ở đây. Rồi từ đây chúng tôi kéo thẳng tới bến chính của tỉnh gọi
là Rum nơi ở của quan tỉnh niềm nở đón tiếp chúng tôi…”
Theo các nghiên cứu lịch sử th́ ba
ngày mà thừa sai Đắc Lộ nói đến rơi vào khoảng 25, 26, 27 tháng 4
năm 1629 và địa điểm ngài đă ghé vào chính là Cửa Sót, thuộc giáo
họ Kim Đôi, giáo xứ Trung Nghĩa ngày nay. Theo ḍng triều dâng của
sông Cày, chẳng bao lâu đă h́nh thành nên cánh đồng Kẻ Nhím.
2, Từ Kẻ Nhím đến Văn Hạnh
2.1, Tên gọi và địa danh Kẻ Nhím
Tên gọi Kẻ Nhím xuất hiện từ khá sớm.
Đây là một trong 3 giáo xứ đầu tiên h́nh thành nên hạt Văn Hạnh (Kẻ
Nhím, Kẻ Đông và Trại Lê). Linh mục Trương Bá Cần trong quyển Lịch
sử Giáo phận Vinh, nói về các linh mục Việt Nam ở Nghệ Tĩnh B́nh
từ 1670 đến 1846 có đoạn: “Linh mục Bằng chịu chức lúc 49 tuổi,
Đức Giám mục Bê-lô và thừa sai Ghi – danh đă phải gia công kềm cặp,
trước khi giao phó cho ngài một giáo hạt ở Nghệ An năm 1716. Ngài
đặt trụ sở tại Kẻ Nhím trong huyện Thạch Hà ngày nay; năm 1725,
ngài tổ chức Năm Thánh tại Bố Chính; năm 1730, linh mục Bằng được
thuyên chuyển ra tỉnh Nam, rồi mất tại đó ngày 9/11/1734.”
Theo các sử liệu và các nhân chứng
kể lại, Kẻ Nhím là một giáo xứ bao gồm cả Trung Nghĩa, An Nhiên,
Văn Hạnh và Giáo Hạ (Chân Thành) ngày nay.
Trong tập truyện Sáu ông Phúc Lộc,
tác giả đă hai lần nhắc đến địa danh Kẻ Nhím. Xin trích:
- “Cụ Nghĩa trốn ở Xóm Cửa Nha (là
tên gọi cũ xứ Văn Hạnh ngày nay), nhờ ông đội Thung có đạo, người
Kẻ Nhím, làm việc quan ngoài Bắc Ninh, đă thôi về nhà hưu trí,
liệu cách khéo thay áo quần đi tàng h́nh đưa vào thăm cùng giải
tội cho người một lần, chừng được hai tháng th́ người phải xử”
(‘người’ tức cha thánh Phêrô Hoàng Khanh).
- “Khi Đ.C. Jêsu gần chịu nạn,
th́ người đă muốn vào vườn Nhậtxêmani mà chịu cơn hấp hối ở đó cho
nên có một đấng thiên thần ở trên trời xuống yên ủi người.
Cùng một lẽ, khi đem tin chỉ vua
đă ra xử cụ Khanh, th́ người cũng xanh mặt và như ngất đi một chốc;
chị Mát, - là người nhà phước Kẻ Nhím đă vào giúp nhà Hướng Phương
15 năm, cũng đă được chọn làm chị ả ở đó năm 1833, rồi trở về làm
chị ả nhà Kẻ Nhím năm 1838, - cũng yên ủi người rằng: “C̣n một
chút nữa, th́ cha sẽ về nước Thiên đàng”. Người tỉnh lại, rồi th́
mặc đồ chịu đi xử.”
Nhà phước Kẻ Nhím được nêu tên ở đây
chính là tiền thân của nhà ḍng Chân Thành ngày nay.

Bia mộ Cha Gioan Nghĩa
Một
số nhân chứng c̣n khẳng định rằng nhà thờ Kẻ Nhím tọa lạc trên
vườn của cố Học Minh, nay là phần đất của ông Lư Học, xóm Nam Phú,
Văn Hạnh. Nhà thờ đă bị đốt phá trong nạn Văn Thân. Hiện nay tại
Văn Hạnh c̣n để lại chứng tích khẳng định điều đó. Thứ nhất, tất
cả các đồ thánh khi nhà thờ Kẻ Nhím bị đốt, đă được cố Đổng, cụ tổ
ông Hiếu (xóm Nam Phú) đưa về chôn cất trong vườn nhà ḿnh. Cho
đến nay tuy chưa t́m thấy nhưng người ta vẫn khẳng định rằng đồ
thánh vẫn c̣n nằm trong vườn ông Hiếu. Chứng tích thứ hai đó chính
là ngôi mộ cố linh mục Gioan Nghĩa, thụ phong linh mục năm 1823.
Thời Minh Mạng ra chiếu chỉ bắt đạo, Ngài đang trốn ở lùm Câu Long
(cạnh nhà thờ Họ Hạnh Đức), được tin Thánh Hoàng Khanh bị trảm tại
Cồn Cồ, cha lấy 4 người Kẻ Nhím, là các ông Miện, Bổn, Khuyên
và ông Uyên Lề người Văn Hạnh, khiêng xác ngài ra tận Nhà
Chung, giao cho cha Chính Nghiêm an táng tại nhà thờ Trung Hậu.
Khi Cha Nghĩa qua đời (1850), được an táng tại nhà thờ Kẻ Nhím.
Sau này yên giặc Văn Thân, năm 1888 xây nhà thờ hạt Văn Hạnh, đă
đưa hài cốt ngài về táng trong nhà thờ, bên trái.
Theo bản đồ hành chính cũ, Kẻ Nhím
thuộc xă Hà Hoàng. Đây là một xă rộng lớn gồm 7 thôn cả lương và
giáo: Hà Hoàng, An Nhiên, Văn Hạnh, Giáp Hạ, B́nh Hương, Xóm Vó,
Chợ Mướp. Sau này chia thành 3 xă: Hà Hoàng (toàn lương dân), An
Nhiên toàn giáo, Văn Giáp (Văn Hạnh, Giáp Hạ, B́nh Hương, Xóm Vó,
Chợ Mướp,1/2 Đồng Tiến) cả lương và giáo. Sau cách mạng 1945, 3 xă
này vẫn hoạt động như cũ. Do điều kiện lịch sử, sau vài lần tách –
hợp, cuối cùng h́nh thành 3 xă như hiện nay: Thạch Thượng, Thạch
Trung và Thạch Hạ.
2.2, Kẻ Nhím bị mất tên
Khi tách Trung Nghĩa (1875), vẫn c̣n
tên Kẻ Nhím. Tuy nhiên, sau hậu quả của giặc Văn Thân, nhà thờ Kẻ
Nhím bị đốt phá, nơi thờ tự không c̣n, giáo dân chạy tản mác, xóm
giáo Cửa Nha (Văn Hạnh ngày nay) được nhập vào sinh hoạt với xứ An
Nhiên, c̣n lại xóm Giáp Hạ sinh hoạt với giáo xứ Ḥa Thắng. V́ thế,
tên Kẻ Nhím bị biến mất, xóm Cửa Nha được đổi tên là xóm Văn Hạnh.
Tên Văn Hạnh ra đời từ đây. Tuy không c̣n xứ Kẻ Nhím, nhưng Văn
Hạnh vẫn là trụ sở hạt.
Tên Văn Hạnh được đổi từ tên xóm Cửa
Nha, một xóm thuộc xứ Kẻ Nhím, do cố Nguyễn Văn Thanh, cụ tổ ông
Khương (Báu) hiện nay, xóm Trung Phú, Văn Hạnh, đă lấy 2 chữ trong
kinh thi của Không Tử: “Văn hạnh trung tín”. Ông đă lấy 2 chữ đầu
là Văn Hạnh (文幸)
để đặt tên cho họ đạo này. Chữ văn
文 có nghĩa là văn
minh, tốt đẹp, lịch lăm; Chữ hạnh
幸 thuộc bộ can,
trên là chữ thổ, (đất), dưới là chữ yên, nghĩa là đất yên. Hạnh là
hạnh phúc, tốt đẹp, may mắn, mong mỏi, hy vọng. Bậc thiên tử đến
vùng đất này yêu mến, hạnh dân. Như thế, tên Văn Hạnh có nghĩa là
nơi văn minh, hạnh phúc.
2.3, Từ
xứ Kẻ Nhím đến xứ Văn Hạnh
Nếu như địa danh Kẻ Nhím cho đến nay
được minh định như trên, th́ địa hạt Kẻ Nhím lại có phần chắc chắn
hơn. Trong bản phúc tŕnh của Đức Cha Ngô Gia Hậu (tức thừa sai
Gauthier) ngày 13/2/1853, báo cáo về số giáo hạt và số nhân danh
của giáo phận Vinh, th́ năm 1844, giáo hạt Kẻ Nhím có 4.636 tín
hữu và đến năm 1852 đă là 5.223 tín hữu.
Ư nghĩa giáo luật của hạn từ “giáo
hạt” trong bản phúc tŕnh vừa nêu, Linh mục Trương Bá Cần có ghi:
“Để chỉ những đơn vị truyền giáo, các bản phúc tŕnh của các
giám mục đương thời có lúc dùng từ “giáo hạt” (districtus,
ditriest), có lúc dùng từ “giáo xứ” (parochia, paroisse). Nhưng
giáo hạt hay giáo xứ không có ư nghĩa giáo luật chặt chẽ như ngày
nay. Giáo hạt hay giáo xứ thời điểm này chỉ là những giáo sở trung
tâm thuận tiện cho việc liên lạc với các họ đạo chung quanh hoặc
an toàn cho sự ẩn trốn của các nhà truyền giáo, có lúc là địa danh
của một vùng, một huyện, có lúc là địa danh của một địa phương nhỏ,
nơi cư ngụ của các linh mục bản quốc hay của các thừa sai”.
Với chứng liệu trên th́ giáo hạt Kẻ
Nhím được hiểu như một giáo xứ rộng lớn có gốc tại Văn Hạnh. Chính
từ giáo xứ này, khai sinh ra phần lớn các giáo xứ trong giáo hạt
Văn Hạnh ngày nay như Trung Nghĩa (1875), An Nhiên (1880), Giáp Hạ
(1931). Chính v́ thế, dù chỉ là họ lẻ của giáo xứ An Nhiên, nhưng
Văn Hạnh đă được chọn làm trụ sở hạt, các thừa sai giữ chức quản
hạt và thường xuyên cư ngụ tại đây. Khi tên gọi mới – hạt Văn Hạnh
ra đời, từ đó tên gọi Kẻ Nhím không c̣n xuất hiện với tư cách là
tên gọi của một giáo hạt nữa.
2.4, Văn Hạnh qua các biến cố
thăng trầm
- Trước khi diễn ra nạn Văn Thân
(1885)
Cũng như sự mơ hồ về thời điểm hai
chữ Văn Hạnh được dùng để gọi tên cho vùng đất này, cho đến nay,
vẫn chưa thấy tài liệu nào nói về thời điểm ra đời giáo họ Văn
Hạnh. Tuy nhiên, theo những ǵ được kể lại th́ trước khi xảy ra
nạn Văn Thân, Văn Hạnh là một xóm của Kẻ Nhím đă có một ngôi nhà
nguyện thô sơ, vật liệu chủ yếu là tranh tre nứa, tọa lạc tại vườn
cố Học Minh, như đă đề cập trên. Ngôi nhà nguyện này đă bị quân
Văn Thân đốt phá, riêng đồ thánh th́ vẫn được bảo toàn, nhờ cố
Đổng khéo léo cất dấu trong một căn hầm bí mật tại nhà ḿnh.
Mặc dù không có thêm nguồn sử liệu
nào, nhưng việc đă có một ngôi nhà nguyện, và sau nạn Văn Thân,
c̣n được thừa sai Belleville xây dựng ngôi thánh đường kiên cố (tức
ngôi nhà thờ cũ hiện đang được sử dụng) cũng cho thấy phần nào
sinh hoạt đức tin của Văn Hạnh ngày đó, hẳn là đă có nền tảng khá
vững vàng.
- Văn Hạnh trong nạn Văn Thân
Văn Thân là tên gọi của một phong
trào khởi phát từ chiếu Cần Vương do Tôn Thất Thuyết khởi xướng
vào năm 1885, nhân danh vị hoàng đế trẻ tuổi Hàm Nghi đang phải
lẩn trốn sự truy đuổi của người Pháp, sau cuộc tập kích bất thành
vào đêm mồng 04, rạng mồng 05 tháng 7 năm 1885, nhắm vào nơi đóng
trú của các tướng lănh và binh sĩ Pháp. Lúc này thực dân Pháp đă
đặt ách thống trị lên toàn cơi An Nam (sau ḥa ước Patenôtre,
06/6/1884).
Phong trào tập hợp đông đảo các tầng
lớp nho sĩ, quan lại yêu nước mà theo họ: “sự xâm nhập của đạo
Thiên Chúa đă làm tổn thương đến tư tưởng, t́nh cảm của dân tộc,
làm xóa ṃn các giá trị đạo đức có từ ngàn năm nay”. Đó là lí
do thay v́ chống Pháp, họ quay sang chĩa mũi vào các thừa sai và
các tín hữu Công giáo. Với khẩu hiệu “B́nh Tây Sát Tả”, người ta
kéo quân đi triệt hạ tận gốc các làng Công giáo, gây ra nhiều nỗi
tang thương và để lại không ít những bất ḥa giai dẳng. Nếu như
dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo
dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, chừng
40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; th́ dưới thời Văn
Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công giáo bị sát hại. Phong
trào diễn ra rầm rộ nhất tại khu vực Nghệ Tĩnh trong khoảng thời
gian từ tháng 10 năm 1885 đến tháng 10 năm 1886.
Là xóm đạo đă có truyền thống, nên
Văn Hạnh cũng trở thành một trong những mục tiêu đánh phá của quân
Văn Thân. Theo những ǵ được kể lại, đang khi cố Minh (tức thừa
sai Aguesse) đang thân chinh xuống Trung Nghĩa chiêu tập lực lượng
và phối hợp với Trại Lê, cứu nguy cho An Nhiên, Văn Hạnh, Chân
Thành (Giáp Hạ), v́ ngài đă ḍ được âm mưu của quân Văn Thân quyết
định ‘làm cỏ’ khu vực này, th́ càn quân đă kéo đến. Khi đoàn quân
cố Minh mới về đến cầu Cày, th́ quân Văn Thân đă điều 5 tướng chỉ
huy 5 voi sang đốt phá chém giết tàn sát giáo dân Kẻ Nhím (gồm An
Nhiên, Văn Hạnh và Giáp Hạ), thuộc xă Hà Hoàng, giáo dân bỏ xứ
chạy xuống băi vẹt, băi đước ngoài cuối sông Sác Giá, gần nhà thờ
cũ An Nhiên. T́nh h́nh rất khẩn cấp, Cố Minh dẫn giáo dân Trung
Nghĩa và Trại Lê chưa tiếp cứu kịp. Khi quân Cố Minh đă hành quân
qua Sông Cày, bỏ gọng ḱm xuống và cho lệnh đốt quán ở Long Đan,
nay là Thạch Long, ngă ba xuống Đ̣ Điệm, để giặc Văn Thân thấy
cháy bên làng lương mới rút quân trở lại. Giáo dân trốn dưới này
đuổi theo, chạy đến Rào Na, nay là Đập Hầu (giữa Văn Hạnh và Hạnh
Tiến) th́ giao chiến. Dưới đuổi lên, trên thúc gọng ḱm đánh xuống.
Tên tướng chỉ huy là Cậu Chiêu (Đốc Long), Bùi Long, con Bùi Thế,
quan phó bảng, ở xă Phật Năo, nay là Thạch B́nh, Thạch Hà, Hà Tĩnh,
bị Cố Minh bắn chết. Năm tướng năm voi chết sạch, quân bị tàn sát
không sót một tên. Xác không ai chôn cất v́ nhiều quá. Chết rùng
rợn. Hiện nay vẫn c̣n dấu tích năm ngôi mộ voi trong làng Văn Hạnh,
một chôn tại góc vườn ông Tuệ, một tại ngơ bà Nhường, một tại Đập
Nậu, một tại Cồn Diệc và một tại Sác Giữa.
Quân Văn Thân đă bị giáng một đ̣n
chí tử, nhưng Văn Hạnh cũng chịu những tổn thất không nhỏ. Nhà cửa,
thóc lúa, trâu ḅ, trong phút chốc, tất cả đă bị lửa Văn Thân
thiêu rụi. Vừa túng quẫn, vừa uất ức, giáo dân Văn Hạnh đă dồn
sang các làng lương dân lấy lương thực về dùng chống đói.
- Thừa sai Bellevile tái thiết
Văn Hạnh
Ngày mồng 06 tháng 7 năm 1886, thầy
Francois Belleville được gọi lên bàn thánh th́ 2 tháng sau, ngày
10 tháng 9, cha lên đường sang An Nam theo tiếng gọi truyền giáo.
Sau 3 năm phục vụ tại giáo xứ Vạn Phần, năm 1888, ngài được bề
trên cử về làm hạt trưởng thay cho cố Minh. Và ngài đã bắt
tay vào tái thiết Văn Hạnh.
Lúc này phong trào Văn Thân đă tan
ră, nhưng những di chứng để lại th́ vẫn c̣n rất nặng nề. Cha đă ra
sức an ủi, động viên bà con giáo dân, và để tăng thêm niềm lạc
quan, phấn khởi cho mọi người, ngài quyết định chọn địa điểm mới
cho xứ đường và xây dựng nhà thờ mới tại một vị trí trung tâm hơn.
Mặc dù cha Belleville (cố Thọ) sau 2
năm phục vụ tại Văn Hạnh, lại được bề trên gọi về làm giáo sư
chủng viện Xă Đoài, nhưng công tŕnh mà ngài khởi sự đă được cố
Xuân, tức thừa sai Magat tiếp tục và hoàn thành vào năm 1893, tức
một năm sau sự kiện Đức Cha Pineau Trị dâng giáo phận Vinh cho Đức
Mẹ (15 tháng 8 năm 1892). Công tŕnh ấy cho đến hôm nay vẫn c̣n
rất vững chăi.
< sẽ bổ sung >
Nhà thờ cũ Văn Hạnh
- Phát chẩn trong nạn đói 1945
Vào những tháng cuối năm 1944, đầu
năm 1945, một nạn đói lớn ập đến cho người dân toàn Miền Bắc. Điều
đáng nói là nó xảy ra đúng vào khi nền kinh tế của đất nước đă bị
các thế lực nước ngoài ḅn rút đến cạn kiệt. V́ thế, hàng triệu
sinh mạng bị đặt vào lên bờ sinh tử.
Không c̣n phân biệt giáo lương, kho
lẫm của các Nhà Chung tức tốc mở cửa cứu đói. Nhà Chung Văn Hạnh,
lúc này dưới quyền coi sóc của cố Yên (tức thừa sai Francois
Gonnet) đang tích lũy được gần hai lẫm lúa lớn. Hằng ngày, từ sáng
sớm, đoàn người khắp nơi tuôn đến, sắp thành hàng dài để nhận phát
chẩn. Mỗi người một đấu lúa. Cứ thế trong suốt hai tháng liền (từ
tháng 2 đến tháng 3 năm 1945), Nhà Chung Văn Hạnh đă trở thành
niềm hy vọng sống c̣n cho đồng bào khắp vùng. Dù rằng mỗi người
chỉ nhận được một lượng lương thực ít ỏi, nhưng từng ấy cũng đủ
cho họ cầm hơi để chống chọi qua cơn hoạn nạn.
Ngoài ra, trong và sau nạn đói,
người ta mang đến Nhà Chung Văn Hạnh rất nhiều trẻ em hoặc không
c̣n chỗ nương thân, v́ cha mẹ đă chết trong cơn đói, hoặc cha mẹ
các em không c̣n khả năng nuôi dưỡng. Cùng với việc phát chẩn, Cố
Yên v́ thế đă mở nhà tiếp nhận và nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Số trẻ mồ
côi này lớn lên, dựng vợ gả chồng, cho đến nay cũng đă được ba bốn
thế hệ. Và người ta quen gọi họ là con trẻ Nhà Chung.
Hoạt động phát chẩn và nuôi dưỡng
trẻ mồ côi tại Văn Hạnh ngày đó, mà cố Yên là người đứng đầu đă để
lại những ấn tượng rất tốt đẹp trong ḷng bà con lương dân cho đến
tận hôm nay.
- Tách khỏi xứ mẹ An Nhiên, lập
thành giáo xứ mới
Trải qua nhiều biến động thăng trầm,
xóm đạo Văn Hạnh đă thực sự trưởng thành cả về mặt số lượng
cũng như tổ chức, đủ khả năng đảm nhiệm những vai trò,
trọng trách của một giáo xứ.
Năm 1950, tức là sau 90 năm nằm
trong lòng xứ mẹ An Nhiên, Văn Hạnh được bề trên nâng lên
thành giáo xứ. Sự kiện này diễn ra đúng vào thời điểm
Giáo hội Việt Nam nói chung, giáo phận Vinh nói riêng, đang
có những chuyển mình, sang trang.
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hạt Văn Hạnh, một
vị linh mục người Việt được giao phó trọng trách hạt
trưởng, đó là cha Phêrô Phúc. Trước đó ngài là linh mục
quản xứ An Nhiên, nhưng khi được đề bạt lên quản hạt, ngài
được thuyên chuyển về Văn Hạnh. Chính ngài đă đệ tŕnh bề trên
giáo phận cho thành lập giáo xứ Văn Hạnh.
Quyết định thành lập xứ được kư vào
năm 1950, tuy nhiên, thời điểm này t́nh h́nh chính trị hết sức
phức tạp, đặc biệt là việc đấu tố địa chủ, nhiều linh mục, giáo
dân bị bắt đi cải tạo, Cha Phúc cũng bị đấu chính trị và phải trốn
vào Nam năm 1952, v́ thế phải đợi 12 năm sau (1962) quyết định
ấy mới được minh nhiên công bố cách rộng rãi trong lịch
phụng vụ của giáo phận. Nhưng điều đó cũng không ảnh
hưởng nhiều đến vị thế của Văn Hạnh trong sinh hoạt giáo
hạt nói riêng, giáo phận nói chung. Vì cha Phêrô Phúc sau
khi được chuyển về làm linh mục quản xứ, quản hạt Văn
Hạnh, đã thực hiện nhiều chương trình nhằm nâng cao vị thế
của giáo hạt, mà trong đó Văn Hạnh là hạt nhân. Trong đó
phải kể đến việc khẩn trương xây dựng ngôi nhà khách của
giáo xứ, củng cố hoạt động của Liên đoàn Công giáo tiến
hành và nhất là ráo riết chuẩn bị cho cuộc Đại hội
Thánh Thể với quy mô chưa từng thấy đã diễn ra một năm sau
đó (1951).
- Liên đoàn Công giáo hạt Văn
Hạnh
Liên đoàn Công giáo tiến hành
của giáo phận Vinh được Đức Cha G.B Trần Hữu Đức phát
động thành lập vào ngày 3/6/1946, sau khi tham dự Đại hội
Công giáo Toàn quốc tại Phát Diệm (ngày 29/10/1945). Lúc
này ngài còn là linh mục Tổng quản của giáo phận.
Với những chủ trương tiếp thu từ
Đại hội Công giáo Toàn quốc, phong trào đã được cụ thể
thành một chương trình hoạt động rất quy mô trên nhiều
bình diện, đến từng giáo hạt, giáo xứ, mang lại nhiều
hiệu quả thiết thực. “Sinh hoạt tôn giáo trước đây chỉ
có kinh lễ, rước xách; giáo lý thì cũng chỉ là những
câu bổn hỏi – thưa thi nhau đọc thuộc lòng. Nay thì ngoài
sinh hoạt tôn giáo bình thường, có thêm những khóa huấn
luyện, những đợt tĩnh tâm, khi thì cho giới này, khi thì
cho giới khác; khi thì tổ chức ngay trong xứ họ, khi thì
tổ chức liên xứ, liên hạt… Trình độ hiểu biết về đạo, về
đời của giáo hữu địa phận Vinh nhờ sinh hoạt của Liên
đoàn Công giáo đã được nâng cao rõ rệt.”
Không khí sôi nổi diễn ra tại
giáo xứ, giáo hạt Văn Hạnh đă làm nóng thêm bầu khí tưng bừng
của toàn giáo phận. Bà con giáo dân, từ thiếu nhi, thanh
niên, gia trưởng, phụ lão, lứa tuổi nào hội đoàn nấy,
tham gia sinh hoạt rất nhiệt tình. Nhưng ấn tượng nhất có
lẽ phải kể đến cuộc Đại hội Thánh Thể diễn ra trong ba
ngày, quy tụ tất cả 17 giáo xứ trong hạt nhà.
Để chuẩn bị bước vào Đại hội,
ban chấp hành liên đoàn công giáo hạt đă được quư cha và quư chức
trong toàn giáo hạt bầu bằng phiếu kín tại hội trường Nhà Lậm Nam
của nhà chung Văn Hạnh. Ban chấp hành gồm có: ông Mai Hội (họ
Hạnh Tiến, Văn Hạnh) chủ tịch liên đoàn; ông Nguyễn Văn Cầu (họ
Xuân Hải, Trung Nghĩa) phó chủ tịch; ông Khang (Trại Lê) chấp hành;
ông Quyền (Ngô Xá) chấp hành; bà Nguyễn Thị Hữu (bà Trùm Tính -
Văn Hạnh) chấp hành, thủ quỹ. Thư kư hạt gồm Thầy Tân, Thầy Hướng
và ông Diên (Trung Nghĩa). BCH liên đoàn hạt làm việc tại sở hạt.
Cha Phúc lên Văn Hạnh làm quản hạt cho ra mượn nhà bà trùm Xưng
(nay là vườn ông Kiều, Bắc Phú, Văn Hạnh) làm trụ sở làm việc cho
đến khi bị đấu chính trị.
Đại hội Thánh Thể, đỉnh cao
hoạt động của hoạt động liên đoàn
Đại hội Thánh Thể do Cha Phúc khởi
xướng và dưới sự chỉ đạo của ban chấp hành liên đoàn Công giáo hạt.
Đại hội Thánh Thể đă diễn ra trong 3 ngày. Ngày thứ nhất, thanh
thiếu niên toàn hạt đã cắm trại ngày tại khuôn viên nhà
thờ, nhà xứ Văn Hạnh, trại được giữ cho đến hết đại hội. Mỗi
giáo xứ dựng một cổng yết, bắt đầu từ nhà thờ An Nhiên
về đến Văn Hạnh. Riêng hai giáo xứ Trại Lê và Trung Nghĩa
dựng hai trạm nghỉ đồ sộ trên đường rước, trạm Cồn Đ́nh, do
Trung Nghĩa đảm nhận trang trí; trạm Đập Mới, do Trại Lê trang trí.
Đây là điểm dừng trên đường kiệu, Thánh Thể được rước vào
và ngự lại để giáo dân chầu. Chiều thứ 7 áp ngày cao điểm, đã
diễn ra cuộc đi Đàng Thánh giá trọng thể từ Cồn Đ́nh - An
Nhiên về Văn Hạnh. 14 mô đất cao được đắp lên tượng trưng cho
14 chặng thánh giá, trên đó có người đứng vác thập giá.
Tại mỗi chặng, linh mục chủ sự sẽ dừng lại cắt nghĩa.
Cứ như thế cho đến chặng 14 tại lễ đài, được dựng ngay
mặt tiền nhà xứ Văn Hạnh. Bước sang Ngày Chúa Nhật, đoàn
rước kiệu Thánh thể tiếp tục được tổ chức trọng thể như
thế và kết thúc bằng giờ Chầu Thánh Thể tại lễ đài.
Không khí sinh hoạt Liên đoàn
công giáo cho đến nay vẫn còn được những người Văn Hạnh đã
sống thời đó lưu giữ khá rành mạch trong ký ức, nhất là
cuộc Đại hội Thánh Thể quy mô và rất sốt sắng, nhưng
đáng tiếc là không khí đó đã không được kéo dài. Liên
đoàn Công giáo giáo phận bắt đầu có dấu hiệu thoái trào
do những nguyên nhân khách quan, nhất là sau vụ Trang Nứa –
Hưng Yên (giữa năm 1952), hoạt động của Liên đoàn phải ngưng
hẳn. Các cán bộ chủ chốt của Liên đoàn lần lượt bị xét
hỏi và bắt giam.
Tại Văn Hạnh, linh mục quản hạt
Phêrô Phúc cũng không tránh được những phiền toái. Một câu
nói đầy ẩn ý ‘của ái đó’ mà cho đến bây giờ, nhiều
người vẫn chưa quên: “Chờ mưa rào, ếch nhái sẽ chui ra,
khi đó tha hồ mà bắt”. Mọi việc đã xảy ra như vậy.
Cha Phúc phải trốn vào Nam, những người đã tham gia tổ
chức, lãnh đạo phong trào bị sách nhiễu, bỏ tù, riêng hạt
Văn Hạnh 15 người bị bắt giam, trong đó có ông Mai Hội, chủ tịch
liên đoàn hạt. Văn Hạnh ngập đầy không khí hoang mang, lo sợ.
- Mười một năm, sở hạt Văn
Hạnh chỉ có linh mục phụ trách; hai mươi tám năm, hạt
trưởng không ở Văn Hạnh.
Niềm vui có chủ chăn chưa kéo
dài được bao lâu thì giáo dân Văn Hạnh lại bơ vơ. Lúc này
linh mục Thân Văn Hiêng, quản xứ An Nhiên, quản hạt Văn Hạnh,
được giao nhiệm vụ trực tiếp điều hành và xử lí những
vấn đề của Văn Hạnh. Đến năm 1955, linh mục Phêrô Nguyễn
Đình Trọng, nguyên là Giám đốc Tiểu Chủng viện dự bị
Xuân Phong được điều về làm hạt trưởng, nhưng cũng không ở
tại sở hạt. Công việc mục vụ tại Văn Hạnh được giao cho
cha phó, đúng hơn là một linh mục đang hưu dưỡng tại Văn
Hạnh – cha già Phêrô Nguyễn Văn Điều (và ngài cũng qua đời
tại đây vào năm 1962, phần mộ nằm trong khuôn viên nhà thờ
cũ). Tiếp đó, linh mục Phêrô Nguyễn Văn Huyền, thụ phong
linh mục ngày 1/2/1959, đến ngày 4/5/1959, nhận bài sai về
làm linh mục phó Văn Hạnh, nhưng cũng sau 2 năm 3 tháng (tức
ngày 2/8/1961), lại được thuyên chuyển vào quản xứ Ngô Xá.
Linh mục Giuse Phan Văn Tần được
cử về coi sóc Văn Hạnh, chấm dứt 9 năm đoàn chiên nơi đây
khắc khoải chờ đợi có linh mục quản xứ. Cha Tần vừa thụ
phong linh mục thì được gửi về quản xứ Văn Hạnh nhưng
không làm hạt trưởng và ở đây suốt 28 năm ròng (1961 –
1989), trải qua ba đời hạt trưởng (Cha Trọng, quản xứ An
Nhiên (1956 – 19780; cha Định, quản xứ Trung Nghĩa (1979 –
1986); cha Lê Đình Hướng, quản xứ Trung Nghĩa (1986 - 1990).
Trong suốt những năm dài ấy, cha
Tần mặc dù ấp ủ bao dự định cho đoàn chiên, nhưng do
những phức tạp của thời cuộc, nên mãi đến cuối đời, khi
đã chuyển sang quản xứ Lộc Thủy, trong thời gian này khởi công
xây dựng nhà xứ Văn Hạnh. Cũng chính những khó khăn thời
cuộc đó mà trong những năm 1981- 1983, một số gia đình là
con cái Văn Hạnh đã tìm đường vào Nam. Mặc dù con số di
cư không lớn, nhưng cũng tạo ra một số xáo trộn trong sinh
hoạt thường nhật xóm làng cũng như sinh hoạt đức tin của
cộng đoàn giáo xứ. Số các gia đình này hiện đã an cư
tại Bắc Ruộng, thuộc huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận (khoảng
50 hộ gia đình với ….nhân khẩu), số khác định cư tại Bình
Giã, Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (khoảng
40 họ gia đình với….nhân khẩu), một số nhỏ khác nữa
ngược lên Đaklak (trên dưới 10 hộ gia đình).

Hai nhà thờ Văn Hạnh hiện nay
- Những bước chuyển mình
quan trọng và một tương lai đầy hứa hẹn
Sau khi linh mục Giuse Phan Văn
Tần được thuyên chuyển lên Chân Thành, đoàn chiên Văn Hạnh
lại phải hai năm lâm cảnh bơ vơ (1989 – 1991; Văn Hạnh lúc
này được cha Phêrô Khánh, quản xứ Ngô Xá kiêm nhiệm) và đó
cũng là hai năm giáo hạt không có hạt trưởng. Nhưng đó có
lẽ là những thử thách cuối cùng trước khi giáo xứ này
bước vào thời kỳ chuyển mình đầy hứa hẹn.
Ngày 15/8/1991, giáo phận Vinh
tưng bừng khai mạc Năm toàn xá, kỷ niệm 100 năm đoàn con
cái giáo phận được Đức Cha Pineau Trị dâng hiến cho Đức
Mẹ. Trong niềm vui chung của toàn giáo phận mừng Năm Thánh Mẫu,
th́ niềm vui riêng đă đến với Văn Hạnh, ngày 17/11/1991, giáo xứ
vui mừng khôn tả chào đón vị linh mục quản xứ mới – cha
Phêrô Nguyễn Văn Đức, vì sau 40 năm kể từ ngày cha Phêrô
Phúc ra đi, linh mục quản xứ đồng thời là hạt trưởng mới
lại về với xứ nhà.
Là người táo bạo và có nhiều
tâm huyết với Giáo hội, nên vừa về nhận nhiệm sở, ngài
đã bắt tay ngay vào việc củng cố tinh thần sống đạo cho
toàn hạt, chấn chỉnh lề thói làm việc cho Hội đồng Hành
giáo các giáo xứ, đề ra lịch sinh hoạt định kỳ cho từng
đơn vị, đề cao phong trào học giáo lý cũng như mạnh dạn
giải quyết những vấn đề nan giải của từng giáo xứ. Nhưng
thành công lớn nhất phải kể đến việc mở lớp Tu sinh An
Nhiên, quy tập những người có chí hướng dấn thân theo ơn
gọi linh mục về đây, vừa ôn luyện kiến thức văn hóa, vừa
rèn luyện đời sống nhân đức. Nhiều người trong số các tu
sinh ngày đó, bây giờ đã trở thành linh mục, và đang phục
vụ tại các giáo xứ hoặc đảm trách những công việc mục
vụ đặc biệt của giáo phận.
Cách riêng với giáo xứ Văn Hạnh,
ngài đã tiến hành tân trang lại Cung thánh, hoàn chỉnh cơ
sở hạ tầng nhà xứ. Đặc biệt, để tiện cho việc tổ chức
các dịp đại lễ ngoài trời, ngài đã cho xây dựng một lễ
đài Đức Mẹ và cải tạo nâng cấp Giếng Da. Ngày 26/11/1993,
ngài còn cho khởi công xây dựng nhà thờ giáo Hạnh Tiến (chiều
dài: 26m, chiều rộng: 12m, và chiều cao tháp chuông dự
kiến: 31m)
Chính nhờ công lao của linh mục
Phêrô Nguyễn Văn Đức mà chỉ trong một thời gian ngắn, đời
sống đức tin của Văn Hạnh nói riêng, toàn hạt nói chung,
đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, tạo tiền đề cho vững chắc
cho những năm tháng tiếp theo. Nhưng có lẽ cũng vì những
thành công đó, mà chỉ sau 3 năm (ngày 10/8/1994), giáo xứ,
giáo hạt Văn Hạnh đành chấp nhận ngậm ngùi tiễn chân
ngài về Xã Đoài, để phục vụ những nhu cầu lớn hơn tại
giáo đô của giáo phận. Để bù đắp lại, Bề trên đã cử
linh mục Phêrô Đậu Đình Triều, lúc này đang quản xứ Vạn
Lộc về thay thế.
Ngày 16/8/1994, cha Triều đến
nhận nhiệm sở. Những công trình đức tin mà vị tiền nhiệm
đã khởi sự lại tiếp tục nhận được sự quan tâm cách đặc
biệt của vị tân quản xứ, quản hạt, nhất là với lớp Tu
sinh An Nhiên. (đă chuyển về Văn Hạnh)
Với Văn Hạnh có thể nói, chưa
bao giờ không khí kiến thiết, xây dựng lại rầm rộ và quy
mô như dưới thời cha Triều coi sóc. Ban đầu là việc tân
trang lễ đài Đức Mẹ, lát đáy giếng nước …, trang bị đầy đủ
ghế ngồi trong nhà thờ, tiếp tục công trình nhà thờ giáo
họ Hạnh Tiến cho đến ngày hoàn thành (07/10/1998), xây
trường giáo lý, nhà khách (công trình nhà khách được xây
dựng ngay trên nền Nhà Lẫm cũ, nhưng chỉ vừa mới xong
phần móng thì đã bị đình chỉ cho đến hôm nay). Đặc biệt,
theo chủ trương chia tách giáo phận đã được Bề trên giáo
phận (lúc này là Đức Giám mục Phêrô Trần Xuân Hạp) chuẩn
bị từ trước, ngày 16/9/2003, công trình nhà thờ mới (dự
kiến sẽ là nhà thờ chính tòa của giáo phận mới trong
tương lai) đã được khởi công. Đây là một công trình nhà thờ
quy mô nhất của giáo phận Vinh từ xưa đến nay với tổng
diện tích 2013 m2 (dài: 67,8m; rộng: 27,6m và
cánh Thánh giá). Cũng vì thế mà lễ khởi công (30/7/2003)
và lễ đặt viên đá đầu tiên (16/9/2003) do Đức Giám mục
Phaolô Maria Cao Đình Thuyên chủ sự, đều được tổ chức rầm
rộ như những ngày hội.
Cũng trong thời gian cha Triều
coi sóc, Xóm Nha, thuộc xứ An Nhiên đã được sát nhập vào
Văn Hạnh (năm 1994) sau bao nhiêu năm trong tình cảnh “cùng
làng khác xứ” và lấy tên là giáo họ Hạnh Đức.
Ở tuổi đời 81 và sau 47 năm thi
hành chức vụ chủ chăn trong vai trò linh mục quản xứ, Cha
Phêrô Đậu Đình Triều được Bề trên giáo phận cho nghỉ hưu.
Ngày 25/10/2004, ngài chuyển về hưu dưỡng tại giáo họ
Hạnh Tiến.
Người thay thế cha Triều là linh
mục Phêrô Nguyễn Văn Vinh, lúc này đang quản xứ Trại Lê.
Vốn là người điềm đạm, cộng thêm sức trẻ, nên mặc dù
đang phải đảm trách một số công việc chuyên biệt của giáo
phận, ngài vẫn dành nhiều tâm huyết cho việc củng cố nền
phụng tự, giáo lý cho giáo xứ và toàn giáo hạt. Đáng kể
hơn cả là việc từng bước hoàn thiện ngôi thánh đường nguy
nga đồ sộ này, một công trình đòi hỏi sự đầu tư rất lớn
về sức người, sức của. Ở đó, vài trò chỉ đạo, điều
hành của ngài với tư cách là linh mục quản xứ đã đóng
góp phần quan trọng để có thể đi đến thành công như ngày
hôm nay.
- Văn Hạnh trước một viễn
cảnh mới
Chỉ mới hôm nào, Văn Hạnh vẫn c̣n là
một xóm nhỏ nằm trong ḷng xứ mẹ An Nhiên, vậy mà sáu mươi hai năm
sau, xứ đạo tưởng như c̣n rất non trẻ, lại có thể làm được những
điều khiến người ta phải nức ḷng ca ngợi. Gần bốn mươi mùa
Xuân-Hạ-Thu-Đông, những trận mưa mồ hôi tưởng như nhiều hơn cả
nước mưa trời để làm nên công tŕnh nhà Chúa nguy nga đồ sộ. Chỉ
ngần ấy cũng đủ để nói lên tất cả.
Và giờ đây, khi thời khắc của ngày
khai sinh giáo phận mới đang đến gần, Văn Hạnh lại được chọn làm
Nhà Chung, không chỉ cho địa hạt Kẻ Nhím như hôm nào, nhưng là cho
đoàn con cái Giáo hội từ Sông Lam đến tận bên này bờ Hiền Lương.
III. Các giáo họ, giáo xóm:
Giáo xứ Văn Hạnh hiện có họ Văn
Hạnh, họ Hạnh Tiến và họ Hạnh Đức, trong đó họ Văn Hạnh gồm 4
giáo xóm Bắc Phú, Trung Phú, Nam Phú và Tân Phú có vai tṛ
và trách nhiệm như 2 họ lẻ khác.
Sau đây là vài nét sơ lược về
các giáo họ, giáo xóm.
1/ Bốn giáo xóm
Ba giáo xóm Bắc – Trung – Nam
trước kia được gọi là Hạnh Trung, Hạnh Phú = Bắc Phú;
Hạnh Đông, Hạnh Phúc = Trung Phú, Hạnh Quý và Hạnh Nam =
Nam Phú. Các tên gọi đó được đổi lại thành Bắc Phú,
Trung Phú và Nam Phú vào khoảng năm 1994. Lịch sử ba giáo
xóm này cũng là nội dung chính trong lịch sử giáo xứ Văn
Hạnh. Riêng giáo xóm Tân Phú, đúng như tên gọi của mình,
là một giáo xóm còn khá non trẻ, tập trung tại khu vực
Nam cầu Cày và đang trên tiến trình thành lập giáo họ.
2/ Giáo họ Hạnh Tiến
Giáo họ Hạnh Tiến trước kia
được gọi là xóm Đập Rậm. Thực ra ban đầu chỉ có một hộ
gia đình ông đồ Lãnh (dân quen gọi là thầy cu Lãnh) định
cư tại đây, nhưng với thời gian, có thêm gia đình ông Yển Đồ,
ông Giốc…Và cho đến hôm nay, thì Đập Rậm đã được phản
ánh đúng như tên gọi của nó. Trong giai đoạn nhà nước
tiến hành xây dựng các đội sản xuất nông nghiệp, Đập Rậm
được đổi tên thành Hạnh Tiến.
Về sinh hoạt đức tin, Hạnh Tiến
gắn chặt với sinh hoạt chung của giáo xứ. Vào năm 1991 (thời
linh mục Giuse Phan Văn Tần quản xứ Văn Hạnh), khi số giáo
dân đã tăng lên đáng kể, Hạnh Tiến được Bề trên giáo phận
cho phép thành lập giáo họ. Hai năm sau (1993), mặc dù
tiềm lực kinh tế còn khá mỏng, nhưng Hội đồng mục vụ
giáo họ cũng mạnh dạn xin phép được một ngôi nguyện
đường, để tiện cho bà con sớm tối kinh hạt. Thỉnh cầu đó
được chấp nhận. Ngày 26/11/1993, công trình nhà nguyện
được bỏ móng, đến ngày 20/7/1994, chính thức bước vào xây
dựng. Kết quả là sau 4 năm 3 tháng 23 ngày, công trình nhà
nguyện đã được làm phép khánh thành trong nỗi mừng vui
khôn xiết hòa lẫn với niềm tự hào chính đáng, vì gần
như công trình đó được xây lên bởi bằng tất cả sự cố
gắng của bà con giáo dân giáo họ Hạnh Tiến, mà không có
một nguồn hỗ trợ nào đáng kể từ bên ngoài.
Cho đến lúc này, cùng với đời
sống đức tin đang ngày được củng cố, tiềm lực kinh tế
của giáo họ cũng đã có nhiều khởi sắc tương đối đồng
đều. Cơ sở vật chất giáo họ được kể là khanh trang nhất
giáo xứ Văn Hạnh với đầy đủ hệ thống nhà phòng (do cha
già Phêrô Đậu Đình Triều xây dựng làm nơi hưu dưỡng của
mình), phòng giáo lý, và một khuôn viên họ đường khá
rộng rãi. Nhất là một đội ngũ các ban ngành hoạt động khá
năng nổ và linh hoạt.
3/ Giáo họ Hạnh Đức
Giáo họ Hạnh Đức trước kia có
tên gọi là Xóm Nha, là một họ đạo lâu đời, thuộc xứ An
Nhiên. Tương truyền rằng, thủa trước đây là một bãi đất
hoang bên bờ Đập Mới, cách An Nhiên một con sông nhỏ. Ban
đầu chỉ có gia đình ông ông Mây Lợ, người An Nhiên lên cắm
lều. Mây Lợ có con thuyền nhỏ, ngày ngày đưa người qua
lại trên bến Đò Na. Về sau, có thêm một số hộ khác gia
đình khác nữa, cũng là người An Nhiên chuyển sang sinh
sống. Xóm Nha từ đó hình thành.
An Nhiên (còn gọi là làng Gậm)
thủa ấy có hai dòng họ lớn là Võ Tá và họ Lê. Cánh họ
Võ Tá Xâng sau nạn Văn Thân đã trở lại đạo, kể từ khi
chuyển lên đất Xóm Nha đã đổi tên đệm và trở thành Võ
Công, ngụ ý mình đã trở thành người công giáo. Dù vậy sự
gắn bó huyết tộc với An Nhiên vẫn rất bền chặt.
Năm 1994, Cha Phêrô Đậu Đình
Triều về quản xứ Văn Hạnh đã quyết định sát nhập Xóm
Nha vào xứ Văn Hạnh và lấy lại tên Hạnh Đức trước đây.
Dù chỉ là một giáo họ nhỏ,
nhưng Hạnh Đức đã từng có những dấu ấn đặc biệt trong
lịch sử giáo phận Vinh. Cách riêng trong vụ án cha thánh
Phêrô Hoàng Khanh. Trong thời gian ngài bị giam giữ tại nhà
ngục Hà Tĩnh, Xóm Nha là nơi các nghĩa tử của ngài ẩn
mình, chờ cơ hội tiếp cận. Và khi ngài được diễm phúc tử
đạo, thì chính giáo hữu Xóm Nha là các ông Miện, Bổn,
Khuyên và Uyên khiêng xác ngài ra tận Nhà Chung, giao cho cha
Chính Nghiêm. Ngoài ra, Hạnh Đức còn có ba người con được
dâng hiến cho Giáo hội, đó là các cha G.B Hạnh (thụ phong
linh mục năm 1871, qua đời tại Cồn Nâm năm 1910); cha Phêrô
Cao (thụ phong linh mục năm 1926, qua đời tại Vạn Lộc năm
1937) và cha Hiên qua đời tại Phan Thiết năm 2010.
Hạnh Đức còn là họ đạo có
truyền thống hiếu học. Đã có những người Hạnh Đức khẳng
định được chỗ đứng của mình ngoài xã hội nhờ con đường
học vấn. Trong thời điểm hiện tại, với sự giúp đỡ của
gia đình bà giáo Hồng (là con cái Hạnh Đức đang định cư
tại Sài Gòn), giáo họ đang cố gắng mở rộng khuôn viên họ
đường.
IV/ Linh mục kiêm nhiệm và
quản xứ, quản hạt Văn Hạnh qua các thời kỳ:
- Các thừa sai:
Họ tên |
Quê quán |
Vai trò |
thời gian |
Th.s Pie Aghet - Cố Minh |
Pháp |
Quản nhiệm |
|
Th.s Francois Bellevile- Cố Thọ |
Pháp |
Quản nhiệm |
1888 - 1890 |
Th.s Pie Magat (cố Xuân) |
Pháp |
Quản nhiệm |
1890 - |
Th.s Henri Blanc – cố Lương |
Pháp |
Quản nhiệm |
|
Th.s Pierre Clavreul – cố Minh |
Pháp |
Quản nhiệm |
|
Th.s Francois Roux – cố Sáng |
Pháp |
Quản nhiệm |
|
Th.s Jean Cherrière – cố Trung |
Pháp |
Quản nhiệm |
|
Th.s Francois Gonnet – cố Yên |
Pháp |
Quản nhiệm |
1943 |
- Các linh mục bản xứ
Họ tên |
Quê quán |
Vai trò |
Thời gian |
Cha Phaolô Diệu |
Song Ngọc |
Phó cố Trung |
|
Cha Giuse Thân |
|
Phó cố Trung |
|
Cha Phêrô Đề |
Vạn Thọ |
Phó cố Yên |
|
Cha Giuse Lâm |
Xuân Mỹ |
Phó cố Yên |
|
Cha Phêrô Phúc |
Nghĩa Yên |
Quản xứ |
1950 - 1952 |
Cha Thân Văn Hiêng |
|
Quản nhiệm |
1952 -1955 |
Cha Pet. Nguyễn Văn Điều |
Tân Phong |
Hưu dưỡng |
1955 -1962 |
Cha Pet. Trần Đình Trọng |
Rú Đất |
Quản hạt - Quản nhiệm |
1956 – 1961 |
Cha Pet. Nguyễn Văn Huyền |
Vạn Căn |
Cha phó |
1959 - 1961 |
Cha Jos. Nguyễn Văn Tần |
Lưu Mỹ |
Quản xứ |
1961 – 1989 |
Cha Pet.Nguyễn văn Định |
Kẻ Đọng |
Quản Hạt |
1979 – 1986 |
Cha G.B Lê Đình Hướng |
Ninh Cường |
Quản hạt |
1986 - 1990 |
Cha Pet.Đậu Xuân Khánh |
Tam Đa |
Quản nhiệm |
1989 – 1991 |
Cha Pet.Nguyễn Văn Đức |
Mẫu Lâm |
Quản xứ |
1991 - 1993 |
Cha Pet.Đậu Đình Triều |
Tân Lộc |
Quản xứ |
1994-2005 |
Cha Pet.Nguyễn Văn Vinh |
Kẻ Gai |
Quản xứ |
2005- |
V/ Con cái Văn Hạnh đă dâng hiến
cho Giáo hội
1/ Linh mục:
Họ tên |
Giáo họ |
Năm Sinh |
Thụ phong |
Hiện tại |
Cha G.B Nguyễn Huy Tự |
Trị sở |
|
1828 |
|
Cha G.B Hạnh |
Hạnh Đức |
1871 |
1905 |
Qua đời tại Cồn Nâm 1910,
cải táng tại Hạnh Đức, Văn Hạnh |
Cha Phaolo Chế |
Hạnh Đức |
|
1897 |
Qua đời 1935 |
Phêrô Cao |
Hạnh Đức |
|
1926 |
Qua đời tại Vạn Lộc 1937
|
Cha Phêrô Nguyễn văn Kính |
Văn Hạnh |
1902 |
1936 |
Qua đời năm 1972 tại Văn Hạnh
(từng làm Cha chính và Giám đốc ĐCV Xã Đoài) |
Cha Gioan Nguyễn Văn Long |
Văn Hạnh |
15/1/1932 |
1964 |
Qua đời tại Đồng Nai (là
linh mục dòng Phước Lý) |
Cha Vũ Đình Hiên |
Hạnh Đức |
1920 |
1957 |
Qua đời năm 2009 tại Phan
Thiết |
Cha Phaolô Nguyễn Văn Cừ |
Văn Hạnh |
1946 |
1999 |
Hưu dưỡng tại họ Vĩnh Viện, Thọ
Vực |
Sửa chữa và bổ sung: Lê Ngọc,
Nguyễn Huy Huệ, Nguyễn Văn Ninh