Giáo Phận Vinh

 

 

Ṭa Giám Mục Giáo Phận Vinh


Địa chỉ : Xă Đoài, Nghi Diên, Nghi Lộc, Tỉnh Nghệ An  ( Bản đồ )

Tel         : [84]-(38)-861-171

 

E-mail    : tgmxadoai@hn.vnn.vn 

 

Web site : http://giaophanvinh.net/

 
   
Năm thành lập : Diện tích    :
Số Giáo dân    :  453,018  
Số Giáo hạt     : Số Giáo xứ : 145
   

Tư liệu :  Lược sử - H́nh ảnh
                Danh sách Giáo xứ Giáo Phận Vinh
                Danh sách Linh mục  Giáo Phận Vinh

-  Tin tức sinh hoạt

* Đại lễ khai mạc Năm Thánh Ḷng Thương Xót tại giáo phận Vinh (13/12/2015)
* "Vị Giám mục không tuổi" (28.01.2010 )
* Tập h́nh Lễ Quan Thầy Đức Giám Mục Giáo Phận
* Đức Giám mục Giáo phận cử hành Lễ Dầu tại nhà thờ chính toà Xă Đoài
* Tin bổ nhiệm và thuyên chuyển các Linh mục trong Giáo phận Vinh 22.08.2008

 

Lược Sử  Giáo Phận Vinh

 

Nguồn : Vietnamese Missionaries in Asia 

 

A. Lược Sử Giáo Phận Vinh

1. Những nét lịch sử chính yếu khai sinh ra giáo phận

Hạt giống Tin Mừng được mang đến phần đất Nghệ-Tĩnh-B́nh, tức lănh thổ giáo phận Vinh ngày nay, có thể là rất sớm. Nhưng một cách chính xác, phải nói đó là năm 1629, tức là 2 năm sau khi nhà truyền giáo vĩ đại Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đặt chân lên Cửa Bạng, Thanh Hóa, đi tiên phong cho đội ngũ thừa sai ḍng Tên, đặt nền móng cho Giáo Hội Công Giáo Đàng Ngoài (Bắc Hà) Việt Nam. Năm 1629, giáo sĩ Đắc Lộ và giáo sĩ P. Marques ở Thăng Long, bị bức xuống thuyền theo đường biển, vào Nam, để về Macao. Đoàn tranh thủ giảng đạo tại những cửa biển thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng B́nh: Cửa Chúa, Cửa Ḷ, Cửa Rùm, Cửa Sót.

Năm 1634, Cửa Rùm đă là một giáo khu phồn thịnh với 4,183 tín hữu.

Năm 1659, Ṭa Thánh thiết lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam: giáo phận Đàng Trong và giáo phận Đàng Ngoài. Phần giáo phận Vinh ngày nay thuộc giáo phận Đàng Ngoài.

Hai mươi năm sau, năm 1679, Ṭa Thánh lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành giáo phận Đông Đàng Ngoài và giáo phận Tây Đàng Ngoài, Nghệ Tĩnh B́nh thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài.

Năm 1846, giáo phận Vinh được thành lập, tách từ giáo phận Tây Đàng Ngoài, gọi là giáo phận Nam bên Bắc Kỳ về sau gọi là giáo phận Vĩnh, rồi giáo phận Vinh.

Trước lúc thành lập

Điều lư thú là phần đất Nghệ Tĩnh B́nh này, tuy thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài, nhưng theo nhận xét của lănh đạo giáo phận Tây - v́ xa xôi, lại có ḷng đạo vững vàng sốt sắng và có giọng nói khác biệt với phần c̣n lại, nên đă được dành cho một quy chế đặc biệt: giám mục chính ở Hoàng Nguyên, Hà Nội; th́ giám mục phó hay linh mục tổng đại diện chốt ở phần phía nam xa xôi này. Cụ thể là:

- Từ 1690 đến 1796, ở Trang Đen, bây giờ thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An, 106 năm với 3 giám mục phó lần lượt coi sóc. Hiện nơi đây c̣n mộ hai giám mục là Đức Cha Edme Bélot (+1717) và Đức cha L.M. Deveaux (+1756). Vị phó thứ ba tại Trang Đen là Đức cha Jean Davoust, thụ phong năm 1771, đến năm 1780 ra thay Đức cha chính là Đức cha Bennetat qua đời. Nhưng v́ quyến luyến Xứ Nghệ, nên khi th́ ngài ở Hà Nội, khi th́ ở Trang Đen. Ngài mất năm 1789. Năm 1792, cha J.B. Longer Gia từ Hướng Phương (Quảng B́nh) được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Tây, nên ngài ra Hà Nội.

- Đức cha Longer Gia được đặc ân chọn kế tiếp nhau 4 giám mục phó. Vị đầu tiên là Đức cha Charles de la Motte Hậu I (1796-1816), ngài bỏ trụ sở Trang Đen về đóng tại Thọ Kỳ tức Thọ Ninh ngày nay. Tiếp theo là Đức cha J. Jaques Guévard Đoan (1816-1823). Cả 2 vị qua đời và đều được an táng tại Thọ Kỳ. Vị thứ ba là Đức cha F.M. Pellerin Phan, mất và an táng tại Nam Định. Vị thứ tư là Đức cha J.M. Havard Giu, chỉ ở Thọ Kỳ được 2 năm rồi ra Hà Nội, lên kế vị Đức cha Longer (+1835). Thánh giám mục Pierre Borie Cao đắc cử giám mục khi đang bị giam tại nhà tù Đồng Hới. Đức cha P.M. Retord Liêu được thụ phong vào năm 1840, đă đặt giám mục phó là Đức cha J. Denis Gauthier Hậu II (1844). Đức cha phó bỏ Thọ Kỳ đời trụ sở về Xă Đoài. Hai năm sau, Ṭa Thánh tách Xứ Nghệ khỏi Tây Đàng Ngoài và thành lập giáo phận Nam Đàng Ngoài, đặt Đức cha Gauthier Hậu II làm đại diện tông ṭa đầu tiên của địa phận mới (1846) tức là giáo phận Vinh ngày nay.

2. Đặc điểm t́nh h́nh giáo phận

Năm 1659, khi Ṭa Thánh thiết lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam, vùng đất Nghệ Tĩnh B́nh đă có nhiều cơ sở và giáo xứ do các cha ḍng Tên, các linh mục Hội Thừa Sai Paris và linh mục Việt Nam coi sóc. Trong tập "Lịch sử nước Annam" do Bentô Thiện gửi cho cha Marini năm 1659 viết: "Nghệ An xứ những nhà thờ Đức Chúa Blờy được bải mươy lăm nhà thánh".

Năm 1707, theo báo cáo của Đức cha Jaques de Bourges, t́nh h́nh giáo dân ở vùng giáo phận Vinh lúc này: xứ Nghệ An, cha Bảo Lộc Tri coi sóc 3,000; Bố Chánh, cha Giuse Phước coi 4,000.

Năm 1846, khi thành lập, giáo phận có một giám mục, 35 linh mục Việt Nam, 4 thừa sai, 75 thầy giảng, 69 chủng sinh, 220 nữ tu, 18 giáo xứ và 66,350 giáo dân.

Thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều thừa sai, linh mục, tu sĩ và giáo dân đă bị giết hại, trong số đó có 6 vị đă được Đức Gioan Phaolô II tuyên phong hiển thánh ngày 19-6-1988.

Ngày 15-8-1892, Đức cha Louis Pineau Trị dâng hiến giáo phận cho Đức Mẹ. Năm đó, giáo phận có: 1 giám mục, 31 thừa sai, 72 linh mục Việt Nam, 224 thầy giảng, 16 đại chủng sinh, 200 tiểu chủng sinh, 175 nữ tu, 88,227 giáo dân, 56 giáo xứ, 514 giáo họ và 300 nhà thờ.

Ngày 3-12-1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đổi tên theo địa bàn hành chính nơi đặt ṭa giám mục, nên giáo phận Tông Ṭa Nam Đàng Ngoài đổi thành giáo phận Vĩnh, về sau được gọi là giáo phận Vinh do Đức cha André Léonce Eloy coi sóc.

Ngày 24-11-1960, Ṭa Thánh thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam và nâng các giáo phận tông ṭa lên hàng chính ṭa, giáo phận Vinh cũng được nâng lên vào ngày này và thuộc giáo tỉnh Hà Nội.

B. Địa Lư và Dân Số

Địa giới giáo phận Vinh gồm 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng B́nh.

Diện tích: Nghệ An 16,692 km2, Hà Tĩnh 6,054 km2, Quảng B́nh 8,037 km2. Tổng cộng: 30,783 km2.

Ranh giới: phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Nam là tỉnh Quảng Trị, phía Đông là Biển Đông, phía Tây giáp nước Lào.

Tổng số dân: 5,766,000 người, Công giáo: 453,018 người. Dân cư đa số làm nghề nông, nghề cá, nghề muối, và nghề thủ công.

Núi cần nhớ: Núi Hoành Sơn, núi Hồng Lĩnh.

Sông chính: sông Lam, sông La, sông Gianh.

Những sắc tộc sống trong vùng: Kinh, H'mông, Thổ, Khơ Mú, Ơ Đu, Thái, Mường, Chứt.

C. Các nhà thờ và Đền Thánh

- Nhà thờ chính ṭa: Nhà thờ chính ṭa hiện nay là công tŕnh xây dựng thứ ba sau khi nhà thờ thứ nhất bị đốt thời Minh Mạng. Ngôi nhà thờ thứ hai được xây dựng lại vào thời Đức cha Ḥa nhưng đă bị bom phá sập năm 1968. Ngôi thánh đường hiện nay được khởi công năm 1977 và được cung hiến ngày 3-3-1979 ngay trước ngày tấn phong Đức cha Phêrô Trần Xuân Hạp (4-3-1979)

- Đền Thánh dâng kính Thánh Tử Đạo Phêrô Hoàng Khanh, ở giáo họ Trung Hậu, giáo xứ Xă Đoài.

- Đền Thánh kính Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa ở Thuận Nghĩa.

- Nhà thờ Thánh Antôn hay làm phép lạ, trung tâm hành hương ngày 13-6 hằng năm ở trại giáo xứ Mỹ Yên.

- Nhà thờ Đá và Lèn Bảo Nham

 

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)

......................

Mời xem thêm :

Tóm Lược

Lịch Sử Giáo Phận Vinh

 

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy

(CHLB Đức 2006)

 

1. Giai đoạn phôi thai: 1533-1651

Ngày Lễ Thánh Giuse, 19.03.1627, khi Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đặt chân lên Cửa Bạng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngài đă cho dựng một tượng Thánh Giá vĩ đại tại cửa biển và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong ṿng 8 tháng trời giảng đạo, thuyền của cha Đắc Lộ đă ghé vào những cửa biển ở Xứ Nghệ: Cửa Ḷ, Cửa Sót và Cửa Rùm. Ở Cửa Rùm ngài đă thành lập được một trung tâm Công Giáo rất sầm uất.

Hơn một năm sau, khi cha Đắc Lộ phải rời Việt Nam để trở lại Âu Châu trong sự luyến tiếc của toàn thể giáo dân, con số giáo dân đă lên tới 30,000 người. Ngoài ra, cái công lớn nhất của cha Đắc Lộ là ngài đă khám phá ra chữ Quốc Ngữ, và đă đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam quyển "Phép Giảng Tám Ngày", ấn hành năm 1651 bằng chữ quốc ngữ nguyên sơ, để dạy giáo lư cho tân ṭng. Quyển sách này được coi là một bảo vật văn hóa quí giá, một di sản ngôn ngữ của người Việt Nam. Ngoài ra cha c̣n viết hai tác phẩm khác bằng tiếng Pháp, có liên quan đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Đó là quyển: "Divers voyages et Missions" (Các Cuộc Hành Tŕnh Truyền Giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 và quyển "Histoire du Royaume de Tonkin" (Lịch Sử Nước Bắc Việt), xuất bản bằng tiếng Ư năm 1650, bằng tiếng Pháp năm 1651 và bằng tiếng La-tinh năm 1652.

 

2. Giai đoạn ổn định: 1659-1792

Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Ṭa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo Phận mới: Giáo Phận Đàng Ngoài, từ tỉnh Quảng B́nh trở ra, được giao cho Đức Cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Đàng Trong, từ Huế trở vào trong Nam, được giao cho Đức Cha Lambert de la Motte coi sóc.

Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo Phận Đàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo Phận mới nữa: Giáo Phận Đông Đàng Ngoài, gồm Hải Pḥng và các tỉnh phía bắc, và Giáo Phận Tây Đàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng B́nh. Phần cực nam từ Thanh Hóa cho đến Sông Gianh được gọi chung là "Xứ Nghệ". V́ Xứ Nghệ cách Hà Nội quá xa, khoảng 500km, mà đường sá lưu thông lại khó khăn, nhất là đại đa số dân chúng c̣n quá nghèo nàn chất phác và có một giọng nói hoàn toàn khác hẳn ở phía Bắc, nên các vị thừa sai đă dành cho Xứ Nghệ một cơ chế hầu như độc lập. V́ thế, nếu ngoài phía cực bắc có Đức Giám Mục, th́ trong phía cực nam có Đức Giám Mục phó. Và nếu "ở phía ngoài" có Chủng viện Vĩnh Trị, chung cho cả Đông và Tây, th́ "trong này" lại có Chủng viện Trang Nứa (sau được dời vào Hướng Phương). C̣n Ṭa Giám Mục được đặt tại Trang Đen (Nam Đàn), sau dời vào Thọ Kỳ (Thọ Ninh) vào thời Đức Cha Hậu I, tức Đức Cha De La Motte. Trên thực tế hầu như hai Giáo Phận độc lập vậy.

 

3. Giai đoạn phân chia Giáo Phận: 1792-1846

Khi Đức Cha Hậu II, tức Đức Cha Gauthier, dời Ṭa Giám Mục từ Thọ Ninh ra đặt ở Xă Đoài vào năm 1842, th́ cũng vào thời gian đó Ṭa Thánh quyết định tách Xứ Nghệ ra khỏi Hà Nội (Tây Đàng Ngoài). Ngày 27.03.1846, Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức Cha Hậu II, Phó Giám Mục của Đức Cha Liêu Retord ở Hà Nội, vào làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận mới Vinh.

Trong một bản tường tŕnh gửi về Ṭa Thánh, Đức Cha Liêu Retord, Giám Mục Chính của Giáo Phận Tây Đàng Ngoài, ca tụng tinh thần giáo dân Xứ Nghệ như sau: "Ở tại Hà Tĩnh và Nghệ An có tới 45,364 bổn đạo. Trong hai tỉnh này, họ là những bổn đạo sốt sắng nhất trong Giáo Phận". Đó chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô ra Sắc Chỉ "Ex debitu pastoralis", ngày 27.03.1846, thành lập Giáo Phận Vinh. Theo Sắc Chỉ trên, biên giới của Tân Giáo Phận Vinh được thiết lập như sau: Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam kéo dài đến tả ngạn sông Gianh, giáp huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng B́nh, phía đông là biển Nam Hải và phía tây là nước Ai Lao. Toàn thể Giáo Phận Vinh bao gồm 3 tỉnh Nghệ An + Hà Tĩnh (22,380 km vuông) và một phần tỉnh Quảng B́nh (2,300 km vuông). Tổng cộng diện tích khá rộng lớn là 24,480 km vuông. V́ ở thị xă Vinh, tuy tiện trục giao thông, nhưng lại quá ồn ào náo động và nhất là đa số dân cư vào lúc bấy giờ ở thị xă Vinh c̣n là lương dân, thành thử Toà Giám Mục được dời về Xă Đoài, cách thị xă Vinh khoảng 13 km. Bởi vậy, mới có trường hợp duy nhất ở Việt Nam là Ṭa Giám Mục và Giáo Phận mang hai tên khác nhau: Giáo Phận Vinh, nhưng Ṭa Giám Mục Xă Đoài.

Ở Xă Đoài tuy được ưu điểm là một miền quê yên tĩnh, nhưng lại thuộc miền đất phèn, không thích hợp cho việc trồng trọt hoa màu, nên rất nghèo nàn và không ai muốn đến lập nghiệp ở đó cả. V́ thế các cô thôn nữ đă thường ca thán với nhau:

"Cậu ra ba bữa cậu về,

"Đồng chua nước mặn chớ hề ở lâu!"

Hiện nay, giáo xứ địa đầu phía bắc là Giáo xứ Hoàng Mai, trong một vùng lam sơn chướng khí. C̣n phía cực nam kề biển là Giáo xứ Tân Thành; mé quốc lộ số 1 là Giáo xứ Mỹ Ḥa, và mặt núi rừng là Giáo xứ Chày. Giáo xứ này nằm đối diện chênh vênh với Chùa Hang, tức Động Phong Nha, một thắng cảnh danh tiếng thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng B́nh.

 

4. Giai đoạn thử thách: vào các năm trước và sau 1846

Theo lịch sử Giáo Hội, vào năm 1655, ở Miền Bắc (Giáo Phận Đàng Ngoài) đă có 414 thánh đường, trong số đó nguyên ở các tỉnh Nghệ-Tĩnh-B́nh đă chiếm 160 ngôi rồi. Lúc chia Giáo Phận (1846) từ Giáo Phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), phần đất dành cho Giáo Phận Vinh gồm có 3 vị thừa sai, 35 Linh mục bản quốc, 75 thầy giảng, 69 đại chủng sinh, 290 tiểu chủng sinh, 270 nữ tu, 19 Giáo xứ với 345 Họ lẽ, và số giáo dân là 66,350 người. Giáo Phận có được một số vốn liếng dồi dào như vậy là nhờ được xây dựng trên máu của các tiền nhân tử đạo anh dũng của hai thế kỷ về trước.

Thật vậy, sau khi Đức Cha Hậu nhận chức được 6 tháng th́ vua Thiệu Trị mất và vua Tự Đức lên kế vị. Thời cuộc chính trị trở nên rối ren, khiến triều đ́nh Huế ra chính sách bách hại tàn bạo Đạo Công Giáo suốt 36 năm trời, với 13 sắc chỉ cấm đạo, coi Đạo Công Giáo là "Tả Đạo", là dịch tệ, là lừa dối dân đen, v.v... Đúng hai năm sau khi thiết lập, chủ chăn và đoàn chiên Giáo Phận Vinh phải sống lén lút và tản mát khắp nơi. Người ta có thể nói được rằng trong thời kỳ bắt đạo suốt mấy thế kỷ trước ở Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh là bị bắt bớ và chịu gian khổ nhiều nhất. Giáo Phận có khoảng 20 vị Linh Mục tử đạo trong thời cấm cách này, chưa được phong thánh. Năm 1868, Giáo Phận đă lập hồ sơ phong thánh cho các vị Tử Đạo Vinh. Trong số 117 vị Tử Đạo được Giáo Hội hoàn vũ tôn lên bậc Hiển Thánh vào ngày 19.06.1988, đă có 6 Thánh Tử Đạo thuộc Giáo Phận Vinh, bị giết dưới thời Minh Mạng (5 vị) và thời Thiệu Trị (1). Danh sách các ngài như sau:

1. Thánh Phêrô Lê Tùy, Linh mục, tử đạo ngày 11.10.1833

2. Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục, 24.11.1838

3. Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa, Linh mục, 24.11.1838

4. Thánh Vincente Nguyễn Thời Điểm, Linh mục, 24.11.1838

5. Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Thầy giảng, 10.07.1840

6. Thánh Phêrô Hoàng Khanh, Linh mục, 12.07.1842

Trong thời gian bắt đạo quá tàn khốc như thế, Đức Cha Hậu và các cha thừa sai đành phải sang lánh nạn ở Hồng Kông một thời gian (1859-1862). Vào năm 1861 (Tự Đức năm thứ 14) có cha Phêrô Nguyễn Bá Triêm được phúc tử đạo tại Quán Thầu Đầu và hài cốt ngài hiện an nghĩ trong nhà thờ xứ Thanh Dạ. Trong nhà thờ Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu c̣n có hài cốt cha Phêrô Nguyễn Trúc, tử đạo. Cha Giacôbê Nguyễn Danh Thông cũng được phúc tử đạo, nhưng không biết hài cốt ngài hiện ở đâu.

Ngoài các vị tử đạo đă được ghi tên tuổi trong sổ vàng của Giáo Hội hoàn vũ và của Giáo phận như trên, c̣n có những vị tử đạo anh hùng trong thời hiện đại. Ở đây, người ta phải kể đến các vị tử đạo anh hùng của Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam do Đức Cha Lê Hữu Từ (Gp. Phát Diệm) thành lập vào năm 1946. Tuy phong trào chủ trương hoàn toàn đứng ngoài mọi hoạt động về chính trị và đảng phái, v́ mục đích và tôn chỉ của Liên Đoàn là phụng sự Thiên Chúa và tổ quốc trong tinh thần ôn ḥa, nhưng sau khi hoạt động được hai năm th́ Liên Đoàn đă bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ đàn áp một cách dă man. Toàn ban chấp hành của Liên Đoàn bị bắt và bị giết: Ông Phạm Tuyên, chủ tịch Liên Đoàn, bị tử h́nh; ông Mạnh Trọng Niệm và em là Mạnh Trọng Tuệ bị tử h́nh; Ông Trương Văn Hứa bị tử h́nh; C̣n các ông Bùi Quỳnh, Phạm Huy Châu, Lm Tuyên úy Trương Văn Liệu, Khánh Sơn, Trần Văn Trị, Sáu Tuyên và một số thành viên khác bị khổ sai chung thân; Lm Vơ Viết Hiền bị chết rũ tù. Riêng cô Liên Phương chịu trách nhiệm về Nữ Giới, bị tra tấn tàn bạo đến chết. Đặc biệt nhất là trong ngày xử tử anh hùng Phạm Tuyên, bà vợ của ông thay v́ than khóc buồn sầu và đau khổ, bà đă đi mua sẵn mấy chục thước vải trắng tinh đưa về cắt ra làm mấy chục tấm theo số tuổi của chồng, và trong ngày xử, sau khi linh hồn ông bay về Thiên đàng hưởng mặt Chúa, th́ bà đă dùng những tấm khăn trắng đó thấm từng giọt máu tử đạo của chồng đổ ra trên mặt đất và vui mừng đưa về nhà thờ kính.

 

5. Danh sách các Đức Giám Mục cai quản Giáo Phận Vinh

a) Các Giám Mục thừa sai:

1. Đức Cha Hậu (Gauthier), cai quản từ 1842-1877

2. Đức Cha Phó Nghiêm (Masson), 1848-1853

3. Đức Cha Ḥa (Croc), 1868-1885

4. Đức Cha Trị (Pineau), 1886-1910

5. Đức Cha Thọ (Belleville), 1911-1912

6. Đức Cha Bắc (Eloy), 1912-1947

Từ ngày 14.06.1951 Giáo phận Vinh được giao lại cho các Đức Giám Mục bản quốc gốc Vinh coi sóc.

b) Các Giám Mục Việt Nam gốc Vinh:

1. Đức Cha GB. Trần Hữu Đức, cai quản từ 1951-1971

2. Đức Cha Phó Phaolô Nguyễn Đ́nh Nhiên, 1963-1969

3. Đức Cha Phêrô Nguyễn Năng, 1971-1978

4. Đức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, 1979- 2000

5. Đức Cha Phaolô Cao Đ́nh Thuyên, 2000-

 

6. Nghệ-Tĩnh-B́nh: Vùng đất anh hùng hào kiệt

Hễ nói đến vùng đất Nghệ-Tĩnh-B́nh là không thể không nhắc đến tên tuổi của những người con ưu tú của dăy đất Miền Trung này, không thể không nhắc đến tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc mang trong ḿnh ḍng máu Nghệ-Tĩnh-B́nh được.

Nếu chúng ta đứng từ Bến Thủy thuộc Nghệ An nh́n sang đất Hà Tĩnh ở phía nam, chúng ta sẽ thấy một cảnh non nước tuyệt đẹp: Cảnh "Sông Lam, Núi Hồng", trải rộng mênh mông và xanh biếc một màu. Bên kia, vượt hàng cây xanh là quả núi Hồng Lĩnh bao phủ kín chân trời. Nh́n toàn cảnh mà du khách cứ muốn t́m đâu là Tiên Điền, đâu là Uy Viễn?

a) Các liệt sĩ và các nhà cách mạng

Vâng, bên trái Cửa Hội, cách khoảng 5km, là làng Uy Viễn, quê của vị quan nổi danh Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Doanh Điền Sứ của Triều Đ́nh, đă có công khai phá miền Tiền Hải (Thái B́nh) và Kim Sơn (Phát Diệm) thành một miền đất trù phú như chúng ta thấy ngày nay. C̣n bên trái, cách 6km, là làng Tiên Điền, quê của nhà văn hào dân tộc Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ "Đoạn Trường Tân Thanh" mà dân gian thường gọi là Chuyện Kiều. Một nhà thi sĩ nổi tiếng khác là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, quê bà ở Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà là tác giả của những cuốn "Xuân Hương Thi Tập" và "Đồ Sơn Bạt Vịnh", v.v... Cách thị xă Vinh 13km là đất Làng Sen, thuộc huyện Nam Đàn. Qua một đầm sen, du khách theo một lối ngơ hoa dâm bụt, sẽ đến một căn nhà lá bạc màu. Trong nhà, một chiếc vơng vắt ngay gian giữa, c̣n chiếc phản gỗ được kê ở gian bên, chiếc rương gỗ, giá sách tre, v.v... đó là tất cả gia sản của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Sinh Cung. Cậu bé chào đời năm 1890 và lớn lên thành nhà giáo Nguyễn Tất Thành. Vốn thông minh khác thường, giàu tinh thần cách mạng, mang nặng ḍng máu Nghệ-Tĩnh yêu nước, nhà giáo Nguyễn Tất Thành đă bỏ nghề dạy học, xuất dương t́m đường cứu nước. Năm 1930, ông thành lập "Việt Nam Thanh Niên Đồng Minh Hội" hay gọi tắt là "Việt Minh", sau đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, dưới bí danh là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh... Nhưng nhắc đến tên Nam Đàn người ta không thể quên được tên một vĩ nhân khác, đó là chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cùng với Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Tăng Bạt Hổ, v.v... ông đă cho phổ biến "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" và đă làm chấn động cả nước. Ông cổ vơ "Duy Tân Tự Cường" và phát động "Phong Trào Đông Du". Nhưng trước khi bỏ đất Nghệ An, chúng ta không quên tên tuổi của một nữ tướng thời danh Bùi Thị Xuân (?-1802). Tuy được sinh ra tại B́nh Định, nhưng gốc ở Triệu Phong (Nghệ An). Là một người phụ nữ có sức mạnh và ḷng can đảm phi thường. Bà đă từng huấn luyện voi và điều khiển đội chiến tượng gồm 100 thớt voi ra Bắc Hà đánh bại quân Thanh. Bà là nữ tướng có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị và giải phóng được thành Thăng Long.

Tiếp đến, khi rời Nghệ An du khách sẽ đặt chân đến làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đó chính là quê hương của nhà đại cách mạng Phan Đ́nh Phùng (1847-1895). Ông nổi danh với cuộc nổi dậy chống Pháp ở Hương Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh, và kéo dài 11 năm. Địa bàn hoạt động của quân kháng chiến do ông lănh đạo bao trùm các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng B́nh. Trong các tướng giỏi của ông có anh hùng Cao Thắng. Một danh sĩ khác, sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, cũng chứa chan một bầu nhiệt huyết yêu nước thương ṇi, đó là Nguyễn Trường Tộ (1827-1871). Ông đă muốn dùng sự hiểu biết và du học của ḿnh để dâng lên vua Tự Đức mấy chục bản điều trần canh tân đất nước trong các lănh vực: Chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, giáo dục, giao thông, vận tải, khai mỏ, khẩn hoang, v.v... Nhưng tiếc thay, các bản điều trần khẩn cấp của ông đă bị bọn nịnh thần xé bỏ, khiến cho những kiến nghị của ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Nguyễn Trường Tộ vốn thuộc một gia đ́nh theo đạo Công Giáo từ nhiều đời và là học tṛ của Đức Giám Mục Gauthier. Nhưng ngoài Nguyễn Trường Tộ, là một giáo dân đă hết ḷng v́ đất nước, lịch sử Giáo Phận Vinh c̣n ghi nhớ một vị Linh mục Công Giáo, một người con của Giáo Phận, đă làm quan lớn dưới triều vua Tự Đức. Đó là cha Phaolô Nguyễn Hoằng (1839-1909). Cha Hoằng sinh tại xứ Phương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cùng với ông Petrus Kư, cha được tham gia phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp để điều đ́nh vào các năm 1863-64. Ông Nguyễn Trường Tô, sống cùng thời, đến thăm và khen Linh mục Hoằng: "Người giỏi tiếng Tây, ngay từ khi ngài c̣n là giáo sĩ phó tế".

Rời đất Nghệ An đi qua Hà Tĩnh và du khách sẽ đặt chân lên đất tỉnh Quảng B́nh, vùng đất của các bậc vĩ nhân. Trước hết, về phương diện văn thơ: Một trong những thi sĩ công giáo nỗi danh nhất là nhà thơ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phan-xi-cô Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại Đồng Hới. Ông là tác giả của những tập thơ nỗi danh và rất được giới yêu thơ quí chuộng như "Đau Thương", "Xuân Như Ư", "Duyên Gấm Ngọc Trai", v.v... và là thần tượng một thời của giới sinh viên, học sinh trong cả nước. Năm 1940, một cơn bạo bệnh đă cướp đi người con tài hoa của vùng đất xứ Quảng. Tiếp đến, về phương diện xă hội chính trị: chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống tiên khởi của Miền Nam Việt Nam, là người phải được xưng danh đầu tiên. Sau khi đă trục xuất tên thực dân Pháp cuối cùng ra khỏi lănh thổ đất nước bằng con đường ngoại giao khéo léo, ổn định cuộc sống cho hơn một triệu người di cư từ Miền Bắc vào trong một hoàn cảnh cực kỳ phức tạp và khó khăn lúc bấy giờ, v.v... ông đă được đồng bào nhất mực tín nhiệm bầu vào chức vụ Tổng Thống. Tuy ông lớn lên ở Huế, nhưng quê gốc và ḍng máu yêu nước hào hùng của ông là của người Quảng B́nh. Năm 1963, trong một cuộc đảo chánh do một số tướng lănh phản bội âm mưu, dưới sự lèo lái của người Mỹ, ông và hai người em trai ruột bị sát hại. C̣n những nhà cách mạng khác trong lịch sử của một nước Việt Nam, là đại tướng Vơ Nguyên Giáp, anh hùng Điện Biên Phủ, v.v... Tất cả đều là những người con ưu tú của vùng đất Quảng B́nh.

b) Các vị Linh Mục Công Giáo ái quốc

Tuy là Linh mục của Giáo Hội, nhưng các ngài cũng là những con dân Nghệ-Tĩnh-B́nh, luôn sôi sục trong ḿnh ḍng máu cách mạng bất khuất. Trước hết phải kể đến Linh mục Mai Lăo Bạng, trong Giáo Phận Vinh gọi ngài là "Ông Già Châu". Sinh ra và lớn lên ở Vinh. Ông rất căm phẩn trước cảnh thực dân Pháp dày xéo quê hương, nên rất tích cực hoạt động cho "Phong Trào Đông Du" của Phan Bội Châu. Chí sĩ Kỳ ngoại Hầu Cường Để rất mến phục ông. Cụ Phan Sào Nam cũng rất quí mến ông và đă tặng ông mấy chữ "Lăo Bạng Minh Châu" Vào năm 1918 Linh mục Mai Lăo Bạng bị sa lưới mật thám của Pháp ở Thái Lan. Ông để lại tập thơ cách mạng bất hủ: "Lăo Bạng Phổ Khuyến Thơ". Nội dung là những lời kêu gọi đồng bào cả nước lương hay giáo hăy đoàn kết cứu nước và đừng để thực dân Pháp lợi dụng gây chia rẽ. Tiếp đến, đặc biệt nhất là ba Linh mục khác nắm giữ các địa vị then chốt trong Giáo Phận Vinh: Lm Nguyễn Văn Tường (Quản lư của Giáo Phận), Lm Nguyễn Thần Đồng (cha sở Nhà Thờ Chính Ṭa), và Lm Đậu Quang Lĩnh (bí thư Ṭa Giám Mục). Cả ba vị đều bị thực dân Pháp kết án 9 năm tù khổ sai biệt xứ và bị đày ra Côn Đảo ngày 21.10.1909, v́ văn hóa Đông Du. Và cũng v́ thái độ "bao che" cho ba vị Linh mục ưu tú trên mà Đức Giám Mục Pineau Trị bị triệu hồi về Pháp và bị ép buộc phải kư tên vào đơn xin từ chức.

- Linh mục Nguyễn Văn Tường (1853-1915), sinh năm 1853 tại Văn Tường, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha Delignon, Tổng Đại Diện Giáo Phận Saigon, năm 1909 được Đức Cha Mossard, Giám mục Saigon, cử ra thăm ba vị ở Côn Đảo và khi trở về đă báo cáo về cha Tường: "Người già nhất là cụ Tường, 56 tuổi, hơi hói đầu, đeo kiếng và mang một cḥm râu hoa râm dưới cằm, trông giống như một ông quan, nhưng khuôn mặt trông rất hiền hậu". Nhờ tài khéo quản lư trong xứ và là người đáng tin cậy, nên Đức Cha Pineau Trị gọi về Xă Đoài và giao cho trọng trách quản lư toàn bộ tài chánh của Nhà Chung mà từ trước tới nay vẫn nằm trong tay các thừa sai người Pháp. Sự bổ nhiệm đă gây nên sự bất b́nh giữa các Linh mục thừa sai, nhất là nơi cha Tổng Đại Diện Giáo Phận là Linh mục người Pháp tên Abgrall Đoài. Chính cha Đoài đă viết thư về Pháp cho Đức Hồng Y Gotti và Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris để tố cáo Đức Cha Pineau là kém khả năng quản trị Giáo Phận, về cả mặt tài chánh lẫn nhân sự. Trong một thư khác, cha Đoài lại gọi các Linh mục Việt Nam là "bọn người đốn mạt". Khi biết được chuyện đó, Đức Cha Pineau liền cách chức cha Abgrall Đoài. C̣n cha Tường từ trần tại Côn Đảo vào năm 1915, trước khi măn hạn tù khổ sai.

- Linh mục Nguyễn Thần Đồng (1867-1944), sinh tại xứ Nhân Ḥa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chịu chức năm 1902 và được bổ nhiệm làm Cha sở Nhà Thờ Chính Ṭa Xă Đoài. Ngài rất có ḷng bác ái, thương người và tinh thần xă hội. Về cha Đồng, cha Delignon đă mô tả: "người thứ hai là linh mục Đồng, 43 tuổi, người bé nhỏ và mặc dầu ít cởi mở, nhưng vẫn sẵn sàng tṛ chuyện và tỏ ra là người có óc phán đoán tốt". Từ nhà tù Côn Đảo cha Đồng đă làm một bài thơ gửi cho một người bạn tri kỷ:

Cái buồn ai biết cái làm sao?

Vướng vít ḷng ta đến nỗi nào!

Đứng lững, ngồi lơ, nằm dở giấc

Sớm trông, chiều nhớ, tối chiêm bao!

Xa xa trên núi cḥm vân phủ

Lộng lộng trước khơi ngọn thủy trào.

Mấy kẻ tri ân ai biết chăng?

Một ḿnh càng nghĩ, nghĩ càng đau!

Sau khi măn tù ở Côn đảo (1918), cũng như cha Đậu Quang Lĩnh, cha Đồng được Đức Cha Mossard nhận về làm việc trong Giáo phận Saigon, v́ cả hai bị án biệt xứ, cấm không được cư trú tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày 26.12.1944, cha Nguyễn Thần Đồng từ trần tại quê nhà, sau 9 năm khổ sai và 32 năm biệt xứ chỉ v́ ḷng ái quốc và mối thịnh t́nh với Phong trào Văn hóa "Đông Du".

- Linh mục Đậu Quang Lĩnh (1968-1930). Cha là người trẻ nhất trong ba vị. Sinh năm 1868 tại Yên Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Linh mục Delignon đă nhận định về cha Lĩnh: "Cụ là một người cao lớn, chững chạc và xem ra rất thông minh". Bởi vậy, tuy trẻ nhất, nhưng ngài là trưởng nhóm của ba vị Linh mục cách mạng. Từ khi c̣n là chủng sinh, cha Lĩnh đă nổi tiếng là thông minh, rất giỏi Pháp văn, La văn và Hán ngữ, lại có khiếu về âm nhạc. Năm 1908 chịu chức Linh mục. Đức Cha Pineau Trị gọi về Nhà Chung cử làm Thư kư Ṭa Giám mục. V́ thế ngài luôn tháp tùng Đức Cha Trị trong tất cả các cuộc kinh lư của Đức Cha và đă nh́n thấy được những cảnh các Linh mục thừa sai đối xử thiếu nhân bản với các Linh mục Việt Nam, trong đó có cả ngài nữa. Nếu các Linh mục Tây mà c̣n đối xử như vậy với các Linh mục Việt Nam như thế, huống hồ là bọn thực dân Pháp c̣n đối xử tàn tệ thế nào nữa với người dân thường. Đó chính là những điều luôn làm cha Lĩnh bức xúc và hết sức ủng hộ phong trào văn hóa Đông Du. Từ trong tù Côn Đảo ngài vẫn tiếp tục "làm văn hóa", trong đó có bài thơ ngài đă gửi về cho một người bạn:

Ngồi tính lần lần đốt ngón tay

Cách nhau trót đă bảy năm chầy

Tóc râu nay đă lem nhem bạc

H́nh vóc trông ra móm mém gầy

Ngồi nghĩ nhớ nhà, nằm nhớ nước

Sớm ra trông bể tối trông mây

Đông qua xuân tới xây vần măi

Hội ngộ nay mai sẽ có ngày.

Sau khi măn tù, cha Lĩnh được Đức Cha Mossard cử làm Phó xứ Cái Mơn, sau lên làm Chánh xứ. Nhờ có tài đức lỗi lạc, cha đă được chọn làm Quản hạt, đồng thời làm Bề trên một Tu viện trên 200 Nữ tu. Cha Lĩnh qua đời năm 1930. Mộ phần của ngài c̣n nằm trong nhà thờ Tu viện Mến Thánh Giá ở Cái Mơn, Vĩnh Long.

- Linh mục Lê Sương Huệ. Ngoài "Bộ Ba Linh Mục Côn Đảo" như đă nói trên, người viết lịch sử Giáo Phận Vinh sau này sẽ không thể bỏ qua được vị Linh mục thứ bốn là Linh mục Lê Sương Huệ. Theo gương các vị tiền bối, từng xả thân cho đại cuộc, góp sức đẩy mạnh công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân phong kiến, chống một lượt vừa ngoại xâm Pháp vừa Nhật trong suốt vùng đất Thanh-Nghệ-Tĩnh-B́nh. Cha Huệ sinh năm 1888, tại làng Cây Khế, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Con một gia đ́nh trung nông, và được hấp thụ một nền giáo dục thuần túy Công Giáo. Trưởng thành trên giải đất Nghệ-Tĩnh-B́nh, nơi đă thấm máu của bao vị anh hùng cứu nước. Ngài được nuôi dưỡng thêm truyền thống bất khuất, cương quyết của giống ṇi. Hoạt động của ngài bắt đầu từ năm 1942, lúc Âu Châu đang bị khủng hoảng dữ dội, Pháp hầu như bị ép buộc lép vế ở Đông Dương. Ngài bắt đầu liên lạc với các nhà Ái quốc như chí sĩ Ngô Đ́nh Khôi, nhà cách mạng Ngô Đ́nh Diệm, để thống nhất ư chí hành động. Ngài bị mật thám Pháp bắt năm 1944 tại nhà xứ của ngài ở Lập Thạch và bị đày vào Trà Khê (Phú Yên). Vào tháng 3.1945, nhân cuộc đảo chính Nhật, cha Huệ được tha. Năm 1948, trên đường đi từ Saigon đến Vĩnh Long, ngài bị phục kích và bị sát hại.

Cả bốn vị Linh mục cách mạng nổi danh của Giáo phận đă nằm xuống. Nhưng sự hy sinh to lớn của các ngài đă không vô ích. Tố quốc của các ngài đă hoàn toàn được giải phóng. Nước Việt Nam nay là của người Việt Nam. Đồng thời những ḍng máu tông đồ nhiệt thành của các ngài cũng đă tô điểm cho Giáo Hội quê nhà thêm đông kẻ thờ phượng Chúa. Đàng khác, máu của các ngài cũng như của hàng ngàn Kitô hữu đă đổ ra, nhuộm đỏ quê hương h́nh chữ S, chỉ v́ ḷng yêu nước thương ṇi, chỉ muốn tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc thân yêu khỏi tay ngoại bang xâm lược, là cả những lời minh chứng hùng hồn cho những lời kết án hồ đồ, cho người Công Giáo là theo Tây, là nối giáo cho giặc, v.v... Tóm lại, tất cả những đứa con ưu tú của quê hương Nghệ-Tĩnh-B́nh, đồng thời là những vị anh hùng của toàn thể dân tộc Việt Nam, xưa kia cũng như ngày, đă khẳng định rằng dải đất Miền Trung này không phải cằn cỗi nghèo nàn, nhưng là dải đất đầy mầu mỡ hùng cường, dải "đất lành chim đậu", dải đất của các anh hùng hào kiệt khét tiếng cả giang sơn Việt Nam.

 

7. Biến cố di cư năm 1954

Sau khi cuộc chiến Pháp-Việt kéo dài 8 năm trời đă được chấm dứt với Bản Hiệp Định giữa đôi bên được kư kết tại thành phố Genève của Thụy Sĩ vào ngày 20.07.1954, tạm lấy Vĩ Tuyến 17 trên sông Bến Hải (Thạch Hản) làm biên giới phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam, cho tới ngày tổng tuyển cử sẽ được tổ chức sau đó, mọi người dân ở cả hai Miền được tự do lựa chọn khu vực sinh sống của ḿnh. Thêm vào đó, lúc bấy giờ một cơn đói đang hoành hành khắp Miền Bắc đă khiến cho khoảng 1,300,000 người dân Miền Bắc mà đa số là người Công Giáo đă di cư vào Miền Nam lập nghiệp. Trong số đó có 57,868 người Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh. Số giáo dân Nghệ-Tĩnh-B́nh di cư vào Nam đă phân tán mỏng ra như sau: Giáo Phận Huế: 1,320 người; Giáo Phận Đà Nẵng: 4,966 người; Giáo Phận Qui Nhơn: 1,032 ngưới; Giáo Phận Nha Trang (và Phan Thiết): 21,792 người; Giáo Phận Kontum: 7,023 người; Giáo Phận Đà Lạt: 5,390 người; Giáo Phận Cần Thơ: 817 người; Giáo Phận Long Xuyên: 2,753 người; Giáo Phận Saigon: 11,868 người. C̣n số giáo dân hiện nay của Giáo Phận Vinh ở Miền Bắc là 406,023 người rải rác trên hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh và một phần tỉnh Quảng B́nh. So với số giáo dân di cư của các Giáo Phận khác th́ các giáo dân gốc Nghệ-Tĩnh-B́nh có thể được coi là đông vào bậc nhất nh́, nhưng v́ người Dân Vinh di cư vào Nam muộn hơn người Bắc và v́ các Linh mục Vinh lúc bấy giờ không được tháo vát, nên Dân Vinh đă bị đưa đi định cư rải rác ở các tỉnh lẽ và trên các vùng Cao nguyên hẻo lánh, chứ không được định cư vùng ngoại ô kế cận Saigon, cả đến một căn nhà nho nhỏ ở Saigon để làm Trụ sở giao dịch cũng không có. Măi về sau, nhờ sự lo lắng của các Linh mục Trương Cao Khẩn và Nguyễn Viết Khai, Dân Vinh mới có căn phố số 32 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nơi gặp gỡ nhau.

- Giáo xứ Tân B́nh

Cùng theo ḍng thác di cư đó, ngày 10.02.1955, cha Nguyễn Văn Dũng và cha Nguyễn Quang Dung (hiện mộ cha già Dung đang nằm trong khuôn viên nhà thờ Tân B́nh) đem một số giáo dân thuộc các xứ Hướng Phương, Ḥa Ninh, Gia Hưng, Minh Cầm đi vào miền Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Ḥa lập thành hai trại định cư Tân B́nh và Băi Giếng, nay là Bắc Vĩnh. Ngày nay cả hai Giáo xứ Tân B́nh cũng như Bắc Vĩnh đă trở thành một trong những Giáo xứ sầm uất và sinh động nhất của Giáo Phận Nha Trang (xin xem tiếp bài "Tân B́nh Quê Hương Tôi" trong cuôn Kỷ Yếu này).

- Tu Viện Mến Thanh Giá Tân B́nh

Có thể nói được rằng trong các Giáo xứ di cư gốc Nghệ-Tĩnh-B́nh ở Miền Nam, không có một Giáo xứ nào được hân hạnh như Giáo xứ Tân B́nh, là có một Tu Viện các Sơ Mến Thánh Giá ngay giữa ḷng Giáo xứ. V́ thế không thể nói đến Giáo xứ Tân B́nh mà lại không nhắc đến Tu viện của các Sơ Ḍng Mến Thánh Giá Tân B́nh.

Năm 1955, khi cha Nguyễn Văn Dũng và một số giáo dân của ngài từ Quảng B́nh vào tới Đà Nẵng, ngài đă đi vào Nha Trang trước để nhờ cha Lê Công Khương hướng dẫn t́m một nơi định cư thật thuận lợi cho giáo dân của ngài. Cha Khương đă giới thiệu vùng đất tại xă Suối Vĩnh, quận Suối Dầu, nằm bên Quốc lộ số 1, gần núi và biển. Thấy quang cảnh quá hữu t́nh, cha Dũng đă vui vẽ lên hứng nói một câu rất chí lư: "Nhất cận thủy, nh́ cận sơn". Sau đó ngài trở lại đưa 2,000 giáo dân, trong đó có 33 chị em Ḍng Mến Thánh Giá Hướng Phương, vào Nha Trang. Nhưng khi các Sơ Mến Thánh Giá vào tới Nha Trang th́ được Đức Cha Marcel Piquet, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang cho ở tạm trong nhà các Sơ Saint Paul tại khu nhà số 1-3, đường Lê Thánh Tôn. Sau đó bà Bề trên Maria Nguyễn Thị Lan xin cho chị em được dời đi nơi khác th́ Đức Cha Piquet cho chị em ở tạm tại nhà các Sơ Ḍng Đức Mẹ Khiết Tâm B́nh Cang. Ở B́nh Cang đưọc 7 tháng th́ Mẹ Bề trên Lan lại xin Đức Cha Piquet cho phép chị em về Tân B́nh định cư và Đức Cha đồng ư. Thế là từ ngày 20.12.1955 chị em Mến Thánh Giá Hướng Phương Giáo Phận Vinh định cư tại Tân B́nh dưới sự d́u dắt của Đức Cha Marcel Piquet và cha xứ Tân B́nh Nguyễn Văn Dũng. Ngày nay Ḍng Mến Thánh Giá Tân B́nh đổi tên thành Ḍng Mến Thánh Giá Nha Trang. Từ những thử thách khó khăn tưởng như không thể vượt qua được ở buổi đầu, Nhà Ḍng đă phát triển một cách mạnh mẽ trong mọi lănh vực. Về nhân sự: từ con số 33 chị em c̣n quá khiêm tốn lúc mới vào định cư, nay đă tăng lên vượt mực. Tính đến năm 2006, số nhân danh của Nhà Ḍng gồm có: 181 Sơ khấn trọn, 103 Sơ khấn tạm, 50 Sơ tập sinh, 30 Sơ thỉnh sinh và 300 em đệ tử. Về cơ sở vật chất: Các chị em đă cùng nhau chắt chiu tần tảo xây dựng được một cơ ngơi thật nguy nga đồ sộ. Những căn nhà mái tranh vách đất xiêu vẹo hay được lợp tôn chật chội và nóng bức năm nào, nay đă được thay thế bằng những ngôi nhà lầu bê tông cốt sắt trông rất hoành tráng, hoàn toàn bảo đảm an ninh cho đời sống tu tŕ và kinh nguyện hằng ngày của chị em. Ngoài ra chị em Mến Thánh Giá Nha Trang c̣n xây dựng được khắp nơi những trung tâm vừa để huấn luyện chị em vừa để làm bàn đạp truyền giáo. Vâng, đặc biệt nhất là vấn đề huấn luyện và đào tạo chị em: Đó là mối quan tâm và nỗi bức xúc vô cùng quan trọng của Nhà Ḍng, cốt sao có thể thích ứng được với những tiến bộ và đổi mới của năo trạng con người ngày nay. V́ thế, ngoài việc cho các chị em trẻ có khả năng không chỉ theo học đủ các ngành khoa học trong nước, mà Nhà Ḍng c̣n gửi các chị em ưu tú đi du học ở ngoại quốc. Đó là những canh tân rất hợp thời và rất đáng khích lệ của chị em Ḍng Mến Thánh Giá Nha trang hiện nay. Và đó cũng là dấu chỉ tích cực cho tương lai của Nhà Ḍng Mến Thánh Giá Nha Trang Tân B́nh. Nhà Ḍng là niềm hănh diện của cả Giáo xứ!

 

Kết luận

Qua những ḍng tóm lược Lịch Sử Giáo Phận Vinh trên đây, người ta phải khách quan công nhận rằng tất cả những người giáo dân gốc Vinh, đều có chung một niềm tự hào về tinh thần quật cường bất khuất của ḍng máu Nghệ-Tĩnh-B́nh anh hùng, trong tất cả mọi lănh vực: kinh tế, xă hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo. Dù sống trên vùng đất quê mẹ Nghệ-Tĩnh-B́nh hay sơ tán trên khắp đất nước Việt Nam hoặc ở một chân trời nào trên thế giới, người Công Giáo Vinh luôn luôn giữ được bản sắc và những phẩm tính cao quí của ḿnh. Đó là chân thành, trung kiên, chịu khó, cần mẫn, cương quyết và luôn lấy chữ tín làm đầu, chứ không bao giờ lật lọng hay dua nịnh. "Trung thần bất nhị quân" - một người tôi trung không bao giờ phục vụ một lần hai chủ, luôn luôn là khí phách của người dân Nghệ-Tĩnh-B́nh. Kính thờ Thiên Chúa và phục vụ Tổ Quốc luôn được người Dân Vinh đặt lên trên hết. Bởi vậy, đồng bào cả nước - lương cũng như giáo - luôn hướng nh́n về vùng đất Miền Trung Nghệ-Tĩnh-B́nh với tất cả sự kính phục và cảm mến. Nghệ-Tĩnh-B́nh muôn năm!

 

Tài liệu tham khảo:

- "Giáo Phận Vinh, Nghệ Tĩnh B́nh", Lm Cao Văn Luận, Khai nguồn lịch sử, Saigon 1975.

- "Lược sử Giáo Phận Vinh", Hồ Đức Hân, do nhóm thân hữu Nghệ Tĩnh B́nh phát hành, Hoa kỳ 1989.

- "Kỷ Yếu Năm Thánh GP Vinh", Ṭa Giám Mục Xă Đoài, 1992.

- "Lịch sử biên niên Việt Nam", Thư viện Học Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, EPEO, Paris.

- "Di sản Hán Nôm Việt Nam, thư mục đề yếu", NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, gồm 3 Tập.

- "Việt Nam Giáo Sử", Lm Phan Phát Nguồn, quyển I, trang 356.

- "Les Annales des MEP".

- "Thám hiểm Phong Nha", Báo Lao Động, số ra ngày 16.08.1994.

- "Triết Lư Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ", Lm Vũ Đ́nh Trác, (Luận án tiến sĩ, xuất bản ở Orange, CA. 1988).

- "Nguyễn Trường Tộ, Con Người và Di Thảo", Lm Trương Bá Cần, Tp. Saig̣n, 1988.

- "Lịch sử Giáo Phận Vinh", Lm Cao Vĩnh Phan, Hoa kỳ, 1996.

- "Những bí mật đàng sau các cuộc Thánh Chiến tại Việt nam", Lữ Giang, HK 1994, trang 197.

- Nội san "Luyện Thép" của giáo dân Vinh di cư, số 4, năm 1956.

- Bài nghiên cứu của N.L. Hénard trong Tạp chí BEFEO (Bulletin de l'École Francaise d'Extrême Orient, số 75.

 

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy

(CHLB Đức 2006)

...................................

LƯỢC SỬ GIÁO PHẬN VINH

Tin Mừng đến đất Việt

Giáo hội Việt Nam lấy thời điểm năm 1533 như là mốc đầu tiên Tin Mừng đến trên quê hương Việt Nam, dựa theo sử liệu của nhà Nguyễn được viết trong sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục. Tuy nhiên, hoạt động truyền giáo đúng nghĩa chỉ được thực sự khởi đầu ở Việt Nam năm 1615 tại Đàng Trong, năm 1627 tại Đàng Ngoài, và riêng tại giáo phận Vinh, từ năm 1629.

Địa lư hành chính Giáo phận Vinh

Giáo phận Vinh nằm trên khu vực địa lư hầu như không thay đổi từ ngày thành lập đến nay, bao gồm tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và phía Bắc của tỉnh Quảng B́nh, với tổng diện tích 30.783 km2. (hiện nay giáo phận Vinh thuộc trọn ba tỉnh: Nghệ-Tĩnh-B́nh). Tên gọi giáo phận Vinh mới chính thức có từ năm 1924. Trước đó, từ khi thành lập, được mang danh là địa phận Nam Đàng Ngoài. C̣n trước đó nữa là một phần của địa phận Tây Đàng Ngoài và là phần cực Nam của Miền Đại diện Tông ṭa Đàng Ngoài.

Có thể chia lịch sử h́nh thành và phát triển của Giáo phận Vinh thành những thời kỳ như sau :

- Thời kỳ khai phá của các thừa sai Ḍng Tên (1629 - 1663)

- Thời kỳ h́nh thành các Đại diện Tông ṭa (1663 - 1846)

- Thời kỳ thử thách (1846 - 1885)

- Thời kỳ phát triển (1885 - 1945)

- Thời kỳ cận đại (1945 đến nay).

________________________________________

I. THỜI KỲ KHAI PHÁ

DO CÁC THỪA SAI D̉NG TÊN

(1629-1663)

Khai sinh giáo đoàn Đàng Ngoài

Tháng 2-1629, linh mục Julien Baldinotti cùng với một trợ sĩ người Nhật lên tàu buôn tại Macao trực chỉ Đàng Ngoài. Sau 36 ngày lênh đênh trên biển, các vị đến Thăng Long và được nhà cầm quyền đón tiếp. Nhưng v́ không biết tiếng địa phương nên cha Baldinotti phải từ chối và theo tàu về lại Macao tháng 8 năm đó.

Nhận thấy những triển vọng tốt đẹp cho công cuộc truyền giáo ở vùng đất này, cha Baldinotti liền thúc dục Bề trên Ḍng Tên tại Macao gửi thừa sai đến Đàng Ngoài. Nhờ được một thương gia giúp đỡ, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) và cha Pedro Marquez lên tàu từ Macao ngày 12-3-1627 và đúng ngày lễ Thánh Giuse, ngày 19-3-1627, hai vị đặt chân lên Cửa Bạng, Thanh Hóa. V́ cả hai thừa sai này, đặc biệt cha Đắc Lộ, đă từng họat động ở Đàng Trong, khá am hiểu phong tục và tiếng Việt nên ngay khi mới đặt chân lên bờ, cha Đắc Lộ đă bắt đầu rao giảng “Đạo Chúa Trời đất” và “có hai người rất thông minh nhất quyết xin chịu phép rửa tội. Tôi đă rửa tội cho họ sau đó ít lâu cùng tất cả gia đ́nh”. Như vậy, giáo đoàn Đàng Ngoài chính thức được khai sinh.

Những hoa quả đầu tiên tại Giáo phận Vinh

Trong hai năm đầu, cha Đắc Lộ và cha Marquez hoạt động ở Thanh Hóa, Ninh B́nh và Thăng Long. Cuối tháng 3-1629, khi bị chúa Trịnh Tráng trục xuất, hai vị bị dẫn độ theo đường bộ vào Quảng B́nh để tống xuất vào Đàng Trong, họ mới có cơ hội giảng đạo trên phần đất giáo phận Vinh ngày nay. Nhờ có tài thuyết phục, hai vị không bị tống xuất vào Đàng Trong mà được phép ở lại để tự t́m phương tiện trở lại Macao. Với thời gian chưa đầy bảy tháng, khi ở trên bộ, lúc ở trên thuyền, trên đường từ Nghệ An, qua Hà Tĩnh, vào Bố Chính, hoặc ngược lại, từ Bố Chính quay lại Nghệ An, cha Đắc Lộ đă tận dụng mọi cơ hội để rao truyền Đạo Chúa và rửa tội cho lương dân. Trước hết là 24 thủy thủ, kể cả thuyền trưởng (trên tổng số 36 người áp giải hai vị thừa sai). Kế đó là 25 người tại Bố Chính, trong đó có một ông Cử rất thông Hán học. Rồi tại quê nhà của “hai giáo dân sốt sắng là Phêrô và Anrê” (cha Đắc Lộ không nói rơ là đâu nhưng có thể là tại Cửa Ḷ hay Cửa Sót) với 112 tân ṭng. Và cuối cùng là mẻ cá lớn với 600 tín hữu tại vùng “Cửa Rum” (có thể là tại Cửa Hội, thành phố Vinh và huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc ngày nay ?). Tất cả những hạt giống đức tin này, tuy được gieo văi trong vội vàng, nhưng đă nhanh chóng lớn mạnh và trở thành ṇng cốt cho Giáo hội tại miền Nghệ-Tĩnh-B́nh sau này.

Các thừa sai Ḍng Tên tiếp nối

Ngày 27-10-1629, cha Đắc Lộ và cha Marquez lên tàu Bồ Đào Nha tại “Cửa Chúa” (tức Cửa Quèn hay Cửa Cờn ?) về lại Thăng Long và bị chúa Trịnh trục xuất phải rời Đàng Ngoài tháng 5-1630. Tháng 3-1631, ba thừa sai Ḍng Tên tới Thăng Long. Đến tháng 10, thêm hai vị khác đến, trong đó có cha Jerome Majorica được cử đi Nghệ An. Đây là vị thừa sai có đóng góp lớn vào văn hóa Việt Nam qua việc biên sọan 48 cuốn sách đủ loại. Ngài cũng là vị thừa sai ở Nghệ An lâu nhất, từ đầu năm 1632 đến khi qua đời tại Thăng Long ngày 27-1-1656 và là người có công lớn trong việc gầy dựng Giáo hội tại đây. Tuy có các lệnh cấm đạo cuối năm 1632, năm 1643 và năm 1649 của chúa Trịnh, nhưng họat động truyền giáo tại Nghệ An vẫn tiến triển tốt đẹp: năm 1639, tại Nghệ An đă có 70 làng đón nhận đức tin; c̣n theo phúc tŕnh ngày13-10-1647 sau cuộc kinh lư tại vùng này, linh mục Jean Cabral ghi nhận rằng: “Ở Nghệ An, có 53 nhà thờ, không kể các nhà nguyện tư là nơi giáo hữu tới cầu nguyện”. Một tài liệu khác cho hay năm 1653, Nghệ An có 70 nhà thờ với 40.000 giáo dân.

II. THỜI KỲ H̀NH THÀNH

CÁC ĐẠI DIỆN TÔNG T̉A

Ngày 9-9-1659, Đức giáo hoàng Alexandre VII thiết lập hai miền Đại diện Tông ṭa là Đàng Ngoài, giao cho Đức cha Francois Pallu, và Đàng Trong, giao cho Đức cha Lambert de la Motte. Cả hai vị đều thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP) và mới được bổ nhiệm Giám mục trước đó, (ngày 29-7-1658). Đức Cha Pallu đă không thể tới nhiệm sở của ḿnh. Vị Tổng Đại diện của ngài, linh mục Francois Deydier tới Đàng Ngoài cuối tháng 8-1666. Vào cuối năm 1669, Đức Cha Lambert de la Motte đă tới Đàng Ngoài và đầu năm 1670, ngài đă phong chức linh mục cho 7 thầy giảng, trong đó, Cha Mactinô Mật và Lêô Trông được cử vào phụ trách miền Nghệ-Tĩnh-B́nh.

Năm 1678, Ṭa Thánh phân chia Đàng Ngoài thành hai địa phận : Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài. Vinh thuộc Tây Đàng Ngoài.

Nghệ-Tĩnh-B́nh là một vùng truyền giáo quan trọng và được chọn làm những nơi cư trú của Đại diện Tông ṭa. Năm 1682, thừa sai đầu tiên của Hội Truyền giáo Paris là linh mục Jean Louis Sarrante tới họat động ở Nghệ An và từ thời điểm đó cho tới khi thành lập giáo phận Vinh (1846), trừ một vài ngắt quăng ngắn, luôn có sự hiện diện của các thừa sai Pháp, gồm 13 vị, trong đó, có 5 vị là Giám mục Đại Diện Tông Toà hay Giám mục phó, như Đức Cha Bélot (1713 - 1717, mất tại Tràng Đen); Đức Cha Guisain (1718 -1723, qua đời tại Tràng Đen); Đức Cha Phó Deveaux (1752 - 1756, mất tại Thọ Kỳ); Đức Cha Phó Charles de La Mothe (tên Việt là Hậu), thụ phong Giám mục năm 1796, dời Ṭa Giám mục từ Tràng Đen về Thọ Kỳ, qua đời tại Kẻ Trầu (Lưu Mỹ) năm 1816 và được an táng trong nhà thờ Thọ Kỳ; Đức Cha Phó Jean Jacques Guerard (tên việt là Đoan), từ năm 1816 đến 1823, qua đời và được an táng trong nhà thờ Thọ Kỳ.

Hoạt động truyền giáo tại Nghệ-Tĩnh-B́nh trong suốt thời gian này c̣n có sự cộng tác đắc lực của các linh mục người Việt, mà hai vị đầu tiên là Mactin Mật và Lêô Trông (1670). Sau đó có thời gian chỉ có 1 hay 2 vị, cũng có lúc hơn 10 vị như dưới thời thừa sai Savary (1764-1783) hay có lúc khoảng 30 vị như năm 1833. Ngoài ra, từ khi trở lại Việt Nam (1669), các thừa sai Ḍng Tên cũng đă hoạt động tại vùng Nghệ-Tĩnh-B́nh là những nơi mà các vị thừa sai ban đầu (đặc biệt là Đắc lộ và Majorica) đă khai phá và thiết lập. Tiếc rằng có sự “tranh căi” giữa các thừa sai Ḍng Tên với các thừa sai Hội Truyền Giáo Paris, và các thừa sai Ḍng Tên đă bị Ṭa Thánh triệu hồi năm 1680, nhưng do nhu cầu mục vụ, được quay lại từ năm 1692.

III. THỜI KỲ THỬ THÁCH

Trong thử thách và cấm cách

Từ lúc khởi đầu đón nhận Tin Mừng (1629) cho đến ngày thành lập (1846), giáo phận Vinh luôn ở trong t́nh thế khó khăn, cấm cách. Tuy có lệnh của triều đ́nh, nhưng việc cấm cách cũng không đến nỗi gắt gao, chủ yếu là những sách nhiễu của địa phương hơn là những truy nă thực sự theo lệnh trên. Đến thời vua Gia Long (1802-1820) và những năm đầu của vua Minh Mạng (1821-1832), đạo Công giáo được phép hoạt động tự do. Nhưng từ đầu năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc chỉ truyền tập trung tất cả các thừa sai nước ngoài về kinh đô và tất cả các linh mục Việt Nam về tỉnh đường; triệt hạ tất cả các nhà thờ, nhà nguyện; triệu tập tất cả tín hữu lên huyện đường bắt khóa quá, bỏ đạo. Thời gian này, giáo phận Vinh đă có nhiều chứng nhân hy sinh, trong đó có 6 Thánh Tử đạo đầu tiên: Linh mục Phêrô Lê Tùy (trảm quyết ngày 11-10-1833), Đức cha Borie (Cao) và hai linh mục Phêrô Vũ Đăng Khoa và Phêrô Nguyễn Thời Điểm bị hành quyết ngày 24-4-1838; Thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự bị xử giảo ngày 10-7-1840. Sau khi vua Minh Mạng mất (21-1-1841), vua Thiệu Trị tiếp tục cấm đạo và giáo phận Vinh có thêm một Thánh Tử đạo là linh mục Phêrô Hoàng Khanh bị xử trảm ngày 12-7-1842.

Tuy bị bách hại nhưng giáo phận Vinh không ngừng phát triển và phát triển tới mức có thể trở thành một giáo phận. Theo báo cáo ngày 27-3-1839 của Giám mục Đại diện Tông toà Retord (Liêu), số tín hữu công giáo Nghệ-Tĩnh-B́nh đă lên tới 63.981 người, gồm 45.334 ở Nghệ An và Hà Tĩnh; và 17.617 ở Bắc Quảng B́nh.

Giáo phận được thành lập

Với số giáo dân đông đảo như trên, chiếm hơn 1/3 tổng số giáo dân của giáo phận Tây Đàng Ngoài, Đức cha Retord (Liêu), trong phúc tŕnh ngày 8-8-1844, đă xin Ṭa Thánh lập một giáo phận mới. “Bởi v́ tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh cùng với huyện quen gọi là Bố Chính là nơi có ít nhất 60.000 giáo hữu có thể làm thành một địa phận rất thuận lợi, gọi là địa phận Nam Đàng Ngoài”. Đề nghị này được Ṭa thánh chấp thuận và ngày 27-3-1846, Đức Thánh Cha Grêgôriô XVI đă kư sắc lệnh thành lập Địa phận Nam Đàng Ngoài, đồng thời bổ nhiệm Đức giám mục phó Tây Đàng Ngoài là Gauthier (Ngô Gia Hậu) làm Đại Diện Tông Toà địa phận mới.

Đức Cha Hậu sinh năm 1810, thụ phong linh mục năm 1834, được tấn phong giám mục phó Tây Đàng Ngoài ngày 06-2-1842 khi mới 37 tuổi. Ngài đến nhận nhiệm sở Xă Đoài ngày 15-2-1847. Vào thời điểm này, giáo phận Vinh có khoảng 64.000 giáo hữu, 5 thừa sai Pháp và 30 linh mục bản quốc. Dưới thời Đức cha Hậu, giáo phận tiếp tục phát triển. Năm 1853, số “giáo hạt” đă tăng lên con số 21 (so với trước chỉ có 18), khoảng 465 “giáo xứ”, giáo họ với 45 linh mục người Việt. Trong phúc tŕnh năm 1853, Đức Cha Hâu viết: “Hiện có 2 chủng viện để dạy cho 85 thanh niên tiếng La tinh…Tôi cũng đă gửi 20 thanh niên khác sang chủng viện Pulo-Pinang học”. Từ năm 1868-1869, với sự trợ giúp đắc lực của Ông Nguyễn Trường Tộ, Đức Cha xây dựng cơ sở Ṭa Giám Mục tại Xă Đoài.

Tiếp nối một thời cấm cách đau thương

Giáo phận mới thành lập, và t́nh h́nh chính trị biến động khiến cho người Công giáo lại bị một phen khốn đốn do bị bách hại. Ngày 1-9-1858, quân Pháp bắn phá Đà Nẵng… Thiệu Trị ban hành chỉ dụ chống Công giáo, Đức Cha Hậu phải tạm ngưng các cuộc kinh lư và t́m nơi ẩn trốn. Triều đ́nh ra lệnh cấm cách gắt gao, truy nă các thừa sai và đạo trưởng. Các quan lại và lương dân địa phương nhiệt t́nh thực hiện các mệnh lệnh, nên trong số 42 linh mục người Việt đang hoạt động, có 20 vị bị bắt và hy sinh (18 vị bị trảm quyết, 2 vị chết trong tù. Tất cả những vị này đều đă được lập hồ sơ xin phong chân phước). Phần giáo hữu cũng không được yên thân: các chức việc trong họ đạo (600 ông Trùm trưởng) và trai tráng bị tập trung, quản chế. Đau thương nhất là tất cả các giáo hữu, bất kể già trẻ, trai gái đều bị “đóng dấu” (thích chữ “tả đạo” vào má trái, c̣n má phải th́ thích tên địa phương họ bị chỉ định cư trú), sau đó đem đi phân tháp: vợ chồng bị chia ĺa, con cái tách rời khỏi cha mẹ và được đưa đến cư ngụ trong các làng lương dân. Các làng Công giáo bị triệt hạ nhà cửa; tài sản, ruộng vườn được chia cho các làng lân cận.

Trong một văn bản gửi Trần Tiến Thành và Phạm Phú Thứ, ngày 4-6-1866, Nguyễn Trường Tộ viết: “Hiện nay ở tỉnh Nghệ An, t́nh h́nh lương giáo ḷng đang sôi sục. Một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho tiệt mới thôi. Một bên nói con thú mà bị khốn quẫn c̣n cắn càn, huống chi là con người ! Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, th́ bên này cũng không để bó tay chịu trói”.

Ngày 07 tháng 6 năm 1868, t́nh h́nh xem ra yên ổn một chút, Đức Cha Hậu trở về Nghệ An và cử hành trọng thể lễ phong chức cho Cố Hoà (Croc) làm giám mục phó. Sau khi tham dự Công Đồng Vatican I (1870), Đức Cha Hoà trở về và trấn nhiệm tại Bố Chính.

Trong thư ngày 7-12-1874, Đức Cha Ngô Gia Hậu cho biết ở Nghệ Tĩnh có 23.190 giáo hữu có nhà cửa bị đốt, 2.058 người bị tàn sát và 1.343 người bị chết đói. Vài con số đối chiếu: Đông Thành toàn làng bị đốt (3.500 người bị mất nhà), 622 người bị sát hại và 158 người chết đói. Quỳnh Lưu: 3.000 // 415 // 145, Nam Đường: 2.000 // 189 // 161, Hương Sơn: 2.500 // 215 // 200; ở Thanh Xuyên (Thanh Chương?) có 6.000 người không c̣n nhà cửa…).

Sau khi Đức Cha Hậu qua đời ngày 8-12-1877, Đức Cha Hoà kế nhiệm. Vị tân Đại diện Tông toà đă có 24 năm kinh nghiệm truyền giáo và 10 năm làm giám mục phó nay phải đương đầu với những nạn đói lớn và phong trào Văn Thân. Theo báo cáo của thừa sai Thanh, th́ do vụ mùa năm 1877 thất thu, từ đó nạn đói mỗi ngày một gia tăng và số người chết không đếm nổi. Năm 1879 thừa sai Phê viết: “Tại Đông Thành có hơn 500 người chết đói”. Ngày 19-3-1879 Đức Cha Hoà viết: “Trong số 70.000 giáo dân của chúng tôi, có 50.000 ở trong t́nh trạng thiếu thốn trầm trọng. Hiện nay trong mỗi làng đều có người chết v́ đói, và số người chết ngày càng tăng”. C̣n thừa sai B́nh từ Hướng Phương viết như sau: “…Ngày nay B́nh Chính chỉ c̣n là một ngôi mộ lớn mỗi ngày ngốn hàng chục, hàng trăm nạn nhân. Theo trí nhớ của loài người th́ chưa bao giờ có một nạn đói khủng khiếp như thế”.

Năm 1884, Đức Cha Hoà v́ kệt sức, phải sang Hồng Kông dưỡng bệnh và ngài đă qua đời tại đó ngày 10.10.1885.

Ngày 5-11-1885 thừa sai Thanh (Frichot) quyền Đại diện Tông Toà ở Xă Đoài viết: “Hiện nay, giáo phận Vinh chúng tôi hoàn toàn nằm trong khói lửa, các Văn Thân từ một tháng nay nổi lên khắp nơi, một số làng công giáo bị hoả thiêu…”. Thống kê thiệt hại của giáo phận Vinh sau những biến cố đau thương của năm 1885-1886 như sau : “Hai trăm sáu mươi bốn, trên tổng số 428 giáo họ bị triệt phá và thiêu huỷ hoàn toàn cùng với 160 nhà thờ. Số giáo hữu bị tàn sát là 4.779 người…”.

Ngày 24-10-1886, thừa sai Trị (Pineau) được tấn phong giám mục và ngài đă phải đối mặt với muôn vàn khó khăn.

IV. GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

(1886-1945)

Cuối năm 1886 Đức Cha Trị viết: “Máu của các tín hữu chúng ta đổ lan tràn từ một năm nay đă làm cho vùng đất thấm máu này trở nên trù phú. Hai làng ngoại, Ḥa Luật và Đông Di, lúc xáo trộn, đă cắt cổ ít nhất 1.100 giáo hữu, hôm nay xin chịu phép rửa”. Hàng năm, có hơn 1.000 người lớn theo đạo, có những năm hơn 5.000 người. Từ năm 1886 cho đến năm 1899, số giáo hữu đă tăng từ 68.000 người lên 116.171 người. Số nhà thờ từ 140 tăng lên 390. Từ năm 1900, số người theo đạo có giảm sút. Năm 1902-1903 Đức Cha Trị viết: “Những cuộc trở lại, khốn thay ngày càng khó khăn. Lối sống của Châu Âu càng ngày càng đâm rễ sâu trong xứ này, sự thờ ơ tôn giáo gia tăng…”.

Sau hơn 23 năm làm giám mục Đại diện Tông toà, Đức Cha Trị đă gặp rất nhiều khó khăn gian khổ. Tuy không c̣n cấm cách bách hại, nhưng phải xây dựng từ điêu tàn do hậu quả của những năm trước, rồi mất mùa, đói kém… 23 năm giám mục của Đức Cha Trị là 23 năm đầu của thời kỳ Pháp thuộc. Đức Cha rất xót xa khi thấy cảnh lầm than của dân chúng do sưu cao thuế nặng. Rồi thời rối rắm lại đến…tháng 6 năm 1909, Đức Cha Trị bị triệu hồi về Pháp và tháng 6 năm 1910, khi tàu vừa tới cảng Marseilles, Đức Cha đă phải kư vào đơn xin từ chức do người ta đă viết sẵn. Dưới thời ngài, số tín hữu đă tăng gấp đôi: đầu năm 1886 là 60.000, cuối năm 1909 tăng lên 142.404.

Sau khi Đức Cha Trị rời giáo phận Vinh, Đức Cha Đông (Gendreau) tại Hà Nội kiêm giám quản tông Toà địa phận Nam. Giữa những phức tạp, rối ren…, ngày 09.2.1911 Toà thánh bổ nhiệm thừa sai Thọ (Belleville), quản hạt B́nh Chính làm giám mục địa phận Nam, nhưng măi tới ngày 24.4.1911 ngài mới trả lời xin nhận nhiệm vụ “v́ Đức Cha Đông nài nỉ và theo sự phán đoán của các đồng sự sáng suốt”. Công việc đầu tiên của vị tân giám mục là kêu gọi các linh mục và giáo hữu toàn giáo phận góp tiền của và công sức để xây dựng Đại Chủng Viện. Nhưng chỉ sau hơn 1 năm được tấn phong và sau vài lần đi viếng thăm mục vụ, ngài đột ngột qua đời ngày 7.7.1912.

“Cố Đoài (Abgrall) nắm quyền Đại diện Tông toà và đối với người Pháp, ngài là ứng viên giám mục sáng giá của giáo phận Nam, nhưng ngày 11.12.1912 Toà Thánh bổ nhiệm cố Bắc (Eloy) làm giám mục Đại diện Tông toà của giáo phận”. Đức Cha Bắc, người có quá tŕnh hoạt động lâu dài tại giáo phận Vinh: 18 năm linh mục thừa sai, 35 năm giám mục Đại diện Tông toà. Dưới thời ngài cơ sở vật chất được xây mới rất nhiều. Ngài đă phong chức hơn 200 linh mục, thành lập thêm 65 xứ. Số giáo hữu ngày một đông hơn: năm 1920 là 124.000 người với 492 nhà thờ, nhà nguyện; năm 1940 là 167.469 người với 741 nhà thờ, nhà nguyện.

Về nhân sự truyền giáo và họat động mục vụ trong thời gian này, phía các thừa sai Pháp, con số luôn khá ổn định, từ 1891 đến 1918, luôn có hơn 30 thừa sai Pháp, có lúc tăng đến con số cao nhất là 39 vị năm 1924. C̣n sau thời điểm này, hầu như luôn ở mức dưới 30 vị, ít nhất cũng có 23 vị. Phần các linh mục Việt Nam th́ ngày càng gia tăng. Năm 1886 có 53 vị, năm 1900 có 68 vị, từ năm 1913 đă vượt ngưỡng con số 100 với 107 vị, năm 1925 có 155 vị và năm 1940 giáo phận Vinh có 186 linh mục Việt Nam.

Riêng nhà thờ Chính ṭa được khởi công dưới thời Đức cha Trị và được khánh thành năm 1892, cũng là năm giáo phận Vinh được dâng hiến cho Đức Mẹ và nhận Đức Mẹ Lên Trời làm Bổn mạng.

Về các ḍng tu trong giáo phận, ngoài Ḍng Mến Thánh Giá đă có từ trước. Từ năm 1930, giáo phận Vinh mới có thêm một ḍng tu và là ḍng duy nhất và đều thuộc Hội Ḍng Phan Sinh là Ḍng Phanxicô (các Cha Ḍng Nhất), Ḍng Thánh Clara (Ḍng Nh́ , năm 1935) và Ḍng Phan Sinh (Ḍng Ba, năm 1936). Hơn 100 trường học, phần lớn là sơ cấp và tiểu học, với khoảng 5.000 học sinh. Các trường được xây dựng tại các giáo xứ.

Nh́n chung, giáo phận Vinh đă phát triển khá ổn định và khá vững vàng trong thời kỳ 1885-1945, như các số liệu so sánh sau đây cho thấy :

Năm Giáo hữu Giáo họ Giáo xứ Linh mục

1885 73.483 445 37 59

1945 180.622 545 147 198

Về người dân Nghệ- Tĩnh - B́nh, Cố Đoài, sau một thời gian dài truyền giáo tại giáo phận Nam, đă đánh giá: “Những người dân ở đây luôn đi đầu trong nổi loạn và đi sau cùng khi phải đầu hàng”.

 

V. THỜI KỲ CẬN ĐẠI

Một giai đoạn bất ổn

Cuộc Cách mạng Mùa Thu 1945, rồi 9 năm kháng chiến và với Hiệp định Genève (20-7-1954), người Pháp rút khỏi Đông Dương, đất nước bị chia cắt thành hai miền, giáo phận Vinh thuộc miền Bắc, do những người Cộng sản nắm quyền. Người Công giáo nói chung rơi vào hoàn cảnh bất ổn, một phần v́ những khác biệt trong ư thức hệ, phần khác v́ những hệ lụy của lịch sử quá khứ để lại. Những đối tượng đầu tiên gánh hậu quả là các thừa sai: cuối tháng 8-1945, tất cả 19 linh mục Pháp và Đức cha Bắc đều bị tập trung về Vinh; sau đó, một số trở về Pháp, số khác vào phía Nam. Riêng Đức cha Bắc, v́ tuổi già sức yếu, được ở lại Ṭa giám mục Xă Đoài và ngài qua đời tại đây ngày 30-7-1947.

T́nh h́nh mới đă buộc hàng giáo sĩ địa phương đứng ra đảm nhận trách vụ điều hành giáo phận. Ngày 31-7-1950, Ṭa Thánh đă bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức làm Giám quản Tông ṭa giáo phận, và ngày 19-8-1951 bổ nhiệm ngài làm Giám mục Đại diện Tông ṭa. Vị giám mục người Việt tiên khởi của giáo phận Vinh phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua: cấm đoán, bắt bớ, tù đày... Trong bối cảnh đó nhiều người Công giáo Vinh, kể cả linh mục và tu sĩ, đă lên đường di cư vào Nam. Hội Ḍng Phanxicô cũng đă lần lượt rời khỏi Vinh.

Nh́n chung, so sánh với các giáo phận khác ở miền Bắc, số người Công giáo Vinh di cư chiếm tỷ lệ không nhiều. Tuy vậy, đó cũng là một cuộc “chảy máu nội lực”. Sau di cư là những căng thẳng do cải cách ruộng đất. Rồi trước thực tế không thể nào khác, người Công giáo phải chấp nhận sống trong t́nh thế thường được gọi là “Giáo hội thầm lặng”. Một “Giáo hội thầm lặng” nhưng luôn luôn sống dưới sự dẫn dắt của Đức Cha Trần Hữu Đức, vị giám mục mà theo ông Nguyễn Thế Thoại - một nhân sỹ công giáo Huế đă sống gần ngài, đă viết: “Đức tính của ngài hiền từ, khiêm tốn, nhă nhặn…và tất cả những ai tiếp xúc với ngài đều không thể quên được dung mạo, cử chỉ, ngôn ngữ của ngài phát ra những đức tính siêu phàm của Phúc Âm: thật thà mà khôn ngoan, ôn tồn mà cứng rắn, dịu dàng mà can đảm, hiền hậu mà kiên quyết, luôn b́nh tĩnh trước phong ba và thản nhiên trong đau khổ…”

Năm 1960, khi hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập, Vinh trở thành giáo phận Chính ṭa. Ngày 15.3.1963, cha Phaolô Nguyễn Đ́nh Nhiên được tấn phong giám mục phó và vẫn ở Đại Chủng Viện với nhiệm vụ là giám đốc. Trong trận bom Mỹ ném xuống khu vực Nhà Chung Xă Đoài, Đức Cha Nhiên bị trọng thương và qua đời ngày 24.3.1969. Đức Cha Trần Hữu Đức tiếp tục lèo lái con thuyền giáo phận cho tới ngày Chúa gọi về, ngày 8.1.1971.

Ngày 15.3.1971, cha Phêrô Nguyễn Năng được tấn phong giám mục giáo phận Vinh. Ngài lănh đạo giáo phận trong thời gian 8 năm. Trước những khó khăn chồng chất, chiến tranh, đổ nát điêu tàn, cấm đoán…Đức Cha chưa thể làm được ǵ nhiều. Ngài vừa khởi công xây dựng lại nhà thờ Chính toà th́ đă phải ra đi đột ngột vào ngày 6.7.1978, hưởng thọ 68 tuổi. Và cha quản lư Phaolô Cao Đ́nh Thuyên tiếp tục công việc này.

Dù giữa muôn vàn khó khăn gian khổ, nhưng Giáo phận vẫn luôn phát triển nhờ sự hiện diện của các giám mục kế tiếp nhau và sự cộng tác tích cực của các linh mục. Tiểu chủng viện Xă Đoài vẫn liên tục hoạt động từ năm 1948 đến năm 1968 là năm nhà trường bị bom Mỹ đánh sập. C̣n Đại chủng viện Xă Đoài vẫn tiếp tục đào tạo các chủng sinh từ tháng 2-1952 cho tới năm 1981. Từ năm 1954 đến năm 1975, giáo phận Vinh có thêm hơn 50 linh mục và luôn là giáo phận có đội ngũ linh mục đông đảo nhất ở miền Bắc.

Ngày 4.3.1979 Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, quản hạt B́nh Chính được tấn phong giám mục tại Xă Đoài trong một cuộc lễ trang trọng, tưng bừng khó quên, v́ dịp này giáo phận khánh thành Nhà thờ Chính toà. Cố gắng đầu tiên của Đức Cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp là làm cho Đại Chủng Viện được hồi sinh vào năm 1988. Giáo phận Vinh đang nh́n về tương lai đầy hy vọng. Năm 1990 sau khi đi viếng mộ hai thánh Tông đồ tại Rôma, Đức Cha đă xin phép Toà Thánh cho mở năm Thánh kỷ niệm 100 năm dâng hiến giáo phận cho Đức Mẹ và 146 năm thành lập giáo phận. Ngày 19.11.1992 Cha Phaolô Cao Đ́nh Thuyên được tấn phong giám mục phó, cả giáo phận lại hân hoan tràn đầy hy vọng và coi đây như là hoa quả Chúa ban cho giáo phận sau Năm Thánh. Năm 1997 toà nhà mới của Ṭa Giám mục được khánh thành…

Trên cương vị lănh đạo, Đức cha Trần Xuân Hạp “đă tranh thủ mọi cơ hội, phấn đấu vượt mọi khó khăn trở ngại để mở mang sự đạo. Mọi sinh hoạt tôn giáo được phục hồi và đẩy mạnh như tĩnh tâm hằng năm của các linh mục tại trung tâm giáo phận, tĩnh tâm hàng quư ở các giáo hạt, việc kinh lư và ban phép thêm sức, việc chầu lượt đền tạ Thánh Thể ở từng giáo xứ, việc học giáo lư của thanh thiếu niên…” (trích “Kỷ yếu giáo phận Vinh 1992”, trang 13). Từ năm 1991, nhờ sự tài trợ của Toà Thánh và các tổ chức nước ngoài, nhiều nhà thờ được xây mới, trường học giáo lư, các cộng đoàn Ḍng Tu cũng được trùng tu lại khang trang hơn. Cũng trong thời gian này, Ḍng Thừa Sai Bác Ái được cha Giuse Nguyễn Đăng Điền khai sinh, và được Đức cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp chính thức chấp nhận vào năm 2000.

Cuối năm 2000, Toà Thánh chấp nhận đơn xin từ nhiệm của Đức Cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp, Đức Cha phó Phaolô Maria Cao Đ́nh Thuyên kế vị.

Là người có kinh nghiệm 40 năm linh mục, và là linh mục có thời gian làm việc lâu nhất tại Xă Đoài, từ quản lư giáo phận trong những năm đầy khó khăn biến động, rồi Tổng đại diện giáo phận và 8 năm trong cương vị giám mục phó, Đức Cha Phaolô rất am hiểu về những khó khăn và thuận lợi, những thách đố và triển vọng của giáo phận xưa cũng như nay, để từ đó giúp cho việc mục vụ của Đức Cha thêm bề thuận lợi và thu nhiều kết quả.

Một điều ai cũng thấy nơi Đức Cha đương nhiệm là luôn quan tâm đến các sinh hoạt tại các cơ sở, giáo xứ, giáo họ. Đức cha đă dành nhiều thời gian để gặp gỡ chia sẻ với con cái, nhất là những nơi vùng sâu, vùng xa.

Những năm qua, giáo phận đă gặp thời thuận lợi để sống và củng cố niềm tin: Năm Thánh Truyền giáo (2004); Năm Thánh Thể (2005) và đặc biệt Năm Giới Trẻ giáo phận (2006) mở ra cơ hội lớn lao để giáo phận, nhất là các bạn trẻ sống niềm tin của ḿnh. Dù cho những thay đổi thăng trầm của lịch sử, nhưng giáo phận Vinh vẫn luôn thể hiện sức sống niềm tin vững vàng và trung kiên.

Những thành quả đạt được, những ấn tượng khó phai sẽ là những động lực nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin hôm nay và tương lai.

Nhờ sự phát triển không ngừng cả chiều rộng và chiều sâu nơi giáo phận Vinh nên Ṭa Thánh có dự định chia tách giáo phận Vinh để thành lập thêm giáo phận mới. Và Đức Cha Phaolô đang chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Một trong những ǵ Đức Cha đang chuẩn bị là xây dựng Nhà thờ Chính toà tương lai tại Văn Hạnh.

Nh́n vào hiện t́nh của giáo phận và quy chiếu về quá khứ đầy bi hùng, chúng ta có thể vững tin vào tươi lai tươi sáng hơn của giáo phận Vinh thân yêu.

Nguồn : www.congdoanvinhhn.com