
Lược
sử Giáo xứ Cái Bông
Họ
đạo Cái Bông
< Tư liệu Website GP Vĩnh Long >
1. Năm thành lập : 1783
2. Số bổn đạo :
- Khi mới thành lập : 3 gia
đ́nh từ miền Trung vào, khoảng 20 người.
- Hiện nay (năm 2010) :
4.123 giáo dân.
3 .
Các Linh Mục Phụ Trách :
A . Các Cha Sở
1. Cha Gernot (1864-1867)
2. Cha Fougerouse (1875-1879)
3. Cha Sidot (1879-1889)
4. Cha Tôma Sâm (1889-1898)
5. Cha P. Tŕnh (1898-1901)
6. Cha Gioan Việc (1901 -1905)
7. Cha Phêrô Nguyễn Phước Khánh (1905 -1922)
8. Cha Phêrô Nguyễn Linh Nhạn (1922-1930)
9. Cha Luca Nguyễn văn Sách (1930 -1956)
10. Cha Felix Lê Vĩnh Tŕnh (1956 -1961)
11. Cha Antôn Bùi Thanh Long (1961 -1963)
12. Cha Gioakim Nguyễn văn Quang (1964 -2006)
13. Cha Giacôbê Nguyễn văn Tươi (2006 - )
B . Các Cha Phó
1. Cha Phaolô Tuyết (1867 - 1875)
2. Cha AugusteAbonnel (1875 - 1879)
3. Cha Tôma Sâm (1879 - 1889)
4. Cha Matthêu Huỳnh Huấn Nhi (1970 - 1974)
5. Cha Giacôbê Nguyễn Công Lành (1974 - 1976)
6. Cha Gioakim Dương văn Ngoan (1976 - 1979)
7. Cha Phaolô Trương Tấn Lực (1989 - 2002)
8. Cha Phaolô Lê Thanh Dũng (2002 - )
4 .
Các Linh mục và Tu sĩ :
A . Các Linh mục sinh quán tại Cái Bông:
1. Cha Gioan Bta Hưởn (1899 - 1960)
2. Cha Gioan Bta Lê văn Gấm (1911 - 1946)
3. Cha Bênêđictô Trương thành Thắng (1912 - 1987)
4. Cha Đôminicô Lê minh Tỏ (1916 - 1985)
5. Cha Gioan Bta Huỳnh cao Thượng ( 1942. Linh mục 1970)
6. Cha Phaolô Trương tấn Lực (1947 . Linh mục 1989)
7. Cha Đôminicô Bùi văn Đằng (1948 . Linh mục 1989)
8. Cha Albertô Trần văn Sang (1958 . Linh mục 1992)
9. Cha Phêrô Nguyễn thanh Liêm (1948 . Linh mục 1993)
B . Các Tu sĩ nam nữ :
Sau biến cố 1975, Họ Đạo
vắng bóng Tu sĩ ! Măi đến năm 2006, giới trẻ dần dần được ơn gọi và
gia nập các ḍng tu. Hiện nay, 2 thầy đang tu học tại Đại chủng viện
Thánh Quư, Cần Thơ. Thêm vài dự tu. 3 tập sinh Hội ḍng Mến Thánh
Giá Cái Mơn. 2 nữ tử Bác Ái Vinh Sơn. 01 nữ tu Charles de Foucauld.
01 tập sinh Ḍng Tôi Tớ Đức Bà. Đó là những tín hiệu đáng mừng.

5 . Giai đoạn h́nh thành và
phát triển :
* Những người công giáo đầu
tiên đến Cái Bông:
Năm 1783, từ miền Trung, 3
người lính của Nguyễn Ánh là Ô. Vơ vách Trưng, Ô. Trương Chức và Ô.
Trương Thoại đă chạy trốn vào đất Cái Bông. Ngày ny nhiều người ở
Cái Bông mang họ Trương (Cha Trương thành Thắng, cha Trương tấn Lực
#). Buổi ban đầu, nhờ công ơn các cha thừa sai, kế đến nhờ các cha
khác quan tâm phát triển Họ đạo, số lượng giáo dân tăng dần lên. Đầu
tiên chỉ có 3 gia đ́nh, đến nay (2010) số giáo dân được 4.123 người.
* Những ngôi Nhà thờ:
- Nhà thờ đầu tiên (1802 -
1833). Theo Monographie de Cai Bong "một ngôi Nhà thờ đă được dựng
nên". Lớn nhỏ thế nào? Làm bằng ǵ? Không rơ. Thời kỳ cấm cách, Nhà
thờ bị phá b́nh địa, giáo dân dự lễ và các Bí tích ở nhà Ông Đội Lư.
Hiện nay là nền nhà của Ông Trùm Trí.
- Nhà thờ thứ 2 (1867 -
1875). Nhà thờ này do cha phó Phaolô Tuyết dựng nên, nhỏ, vật liệu
nhẹ.
- Nhà thờ thứ 3 được cha
Fougerouse (1875 - 1879) cho dựng nên. Công tŕnh to lớn. Cha bỏ vào
đây số tiền khá nhiều. Năm 1879 cha ra đi, Nhà thờ vẫn chưa xong.
Cha Sidot đến kết thúc việc xây dựng. Ông chánh Nguyễn văn Hương
dâng nữa số tiền mua quả chuông nặng 200kg. Đến nay vẫn c̣n sử dụng.
- Nhà thờ thứ 4 do Cha Luca
Sách xây dựng từ năm 1930. Công tŕnh này kéo dài 3 năm 8 tháng.
Tháp chuông cao 32 mét. Do thiếu tiền nên bị giảm 4 mét.
Nhà thờ được trùng tu lại :
- 1998, gia cố lại tháp
chuông
- 2001, nới rộng cung thánh
- 2006, sơn tháp chuông và
bên ngoài Nhà thờ
- 2010, lợp ngói mới và
thay toàn bộ cửa sổ.
* Những cơ sở vật chất khác:
1. Từ năm 1905, Họ đạo Cái
Bông đă có trường tư thục Công giáo, do các D́ Mến Thánh Giá Cái Mơn
đảm trách. Năm 1932 được xây lại kiên cố. Được tái thiết năm 1973.
Hiện nay ngành giáo dục tạm mượn những dăy trường này.
2. Trước đây, do nhu cầu
đảm trách trường tư thục Công giáo, số D́ đến phục vụ khá đông. Nhà
D́ rộng răi tọa lạc trên khuôn viên có những dăy trường học.
3. Nhà xứ khang trang được
xây dựng năm 1972. V́ nhu cầu hiện nay, cơi thêm một lầu làm pḥng
khách vào năm 2008.
4. Nhà giáo lư phía bên
phải của Nhà thờ.
5. Nhà đa dụng nối liền với
nhà xứ, phía bên trái của Nhà thờ.
6 . Nhận định về t́nh trạng
gáo dân trong Họ Đạo
A . Tinh thần đạo đức :
Ngày Chúa Nhật, có lễ sáng
và lễ chiều số giáo dân đi tham dự thánh lễ khá đông, Nhà thờ quá
tải. Một số ở giữa ranh giới Giồng Trôm và Ba Tri, đi Nhà thờ La Mă.
Ngày thường, chỉ có một lễ vào buổi chiều, số người tham dự thánh lễ
cũng tương đối. Thường xuyên xưng tội và rước lễ. Ngoài ra, các Hội
Đoàn gồm có: Ban Quới chức, Hội Mẹ Công Giáo, Hội Thăng Tiến (thanh
niên), Thiếu Nhi. Sinh hoạt các Hội đoàn thêm sức sống cho Họ Đạo.
Tham gia dạy giáo lư, ác ái xă hội, công tác Nhà thờ... Đa số giới
trẻ đi học và t́m việc làm ở tỉnh thành. Thiếu Nhi Thánh Thể đă được
đoàn ngủ hóa. Học giáo lư và sinh hoạt đạo đức hàng tuần.
B . T́nh trạng kinh tế của
giáo dân :
Đa số giáo dân sinh sống
bằng nghề nông. Làm ruộng 3 vụ lúa / 1 năm. Nếu chỉ có lúa, "ăn no"
nhưng chưa "mặc đẹp". Do đó, cần phải chăn nuôi heo, ḅ, gà, vịt;
chỗ đông dân cư, thêm buôn bán nhỏ. Phần đông thanh niên làm nghề
xây dựng, tới mùa lúa th́ tạm ngưng và chuyển qua làm ruộng. Một số
người trẻ đi t́m việc làm ở tỉnh thành, tự mưu sinh và t́m cách phụ
giúp gia đ́nh.
Tóm lại, người dân ở đây
cần cù lao động. Nhờ đó, cuộc sống kinh tế tạm ổn. Con cái được đi
học. Hiện nay, trong Họ đạo nhà tường nền gạch mái tôle chiếm đa số.
Mỗi khi có công tŕnh xây dựng hoặc trùng tu, giáo dân đều sẵn sàng
đóng góp theo khả năng. Điều này cho thấy t́nh trạng kinh tế của
giáo dân đang trong chiều hướng phát triển.
7. Hướng
tới :
- Giáo lư rất cần thiết để
giúp giáo dân sống đạo. V́ vậy, mọi thành phần đều cần được học giáo
lư liên lỉ và trường kỳ. Không chỉ thiếu nhi học giáo lư mà thôi,
người lớn cũng cần phải trau dồi đức tin. Mỗi Chúa Nhật, cha sở dạy
giáo lư chung trước khi cử hành thánh lễ. Mở khóa giáo lư cho người
lớn. Các hội đoàn đều học hỏi giáo lư bằng nhiều h́nh thức khác nhau.
- Nuôi dưỡng ơn gọi và nâng
cao tŕnh độ dân trí. Họ đạo chung sức, t́m thêm những ân nhân giúp
học phí cho những tu sinh và những sinh viên được tốt nghiệp cao
đẳng và đại học. V́ một tương lai tươi sáng.
- Vùng này, dân cư theo tín
ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, có cách nào để giới thiệu Chúa cho
người ta đây ?! Tạo ư thức cho giáo dân, đào tạo các hội đoàn qua
những tiếp xúc, thăm viếng, giúp đỡ, giao lưu lễ hội... Đó là những
cách truyền giáo khả thi cần thực hiện.
Nguyện xin Chúa chúc lành
cho những dự tính của chúng con. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại
Thiên".
....................................

Lịch sử: Giáo xứ CÁI BÔNG

Nguồn :
Trang web Cái Mơn
I .H̀NH
THÀNH ( SỬ LIỆU)
Tài liệu này được dịch từ
MONOGRPHIE DE CÁI BÔNG,
DICTRICT DE BẾN TRE từ trang 120 – 129,
Lưu trử trong văn khố Toà Tổng Giám
Mục Sài G̣n.
Lưu ư:
Phần chú thích là của người dịch.
I.
Nguồn Gốc:
Ai cũng biết rằng phần đất của tỉnh
Bến Tre hiện nay, khi xưa là xứ của người Miên, dù vậy chúng ta
không biết rơ lúc nào, người Annam(*1) đă đến lập
nghiệp. Họ đến đây không phải từ đám đông cùng một lúc, và họ cũng
phải lấn chiếm đất đai của người Miên, y như họ vẫn làm ở tỉnh Trà
Vinh, là… Người Miên từ từ nhường đất đai của ḿnh cho người Annam.
Không ai đoán được cuộc xâm lăng hoà b́nh này (*2) chừng nào sẽ kết
thúc.
Ở Bến Tre hiện nay, vài nguồn tin "tôi"
(*3) được biết: Vào cuối thế kỷ 18, người Miên c̣n ở trong vùng này;
nhưng cũng chắc chắn rằng: lúc đó người Annam đă định cư thành làng
mạc tại đây.
Trong khi ṭ ṃ t́m hiểu về tổ tiên
của cụ Phan Thanh Giản (1796 - 1868), quan đầu tỉnh cuối cùng của
Vĩnh Long, tôi được biết từ chính miệng người cháu của cụ Phan, sinh
tại Bảo Thạnh (cụ Phan được chôn cất tại đây). Ông nội cậu là người
đi di dân từ Annam tới. Thân phụ của cụ sinh lối năm 1775. Ông nội
đă lập nghiệp ở đây (Bảo Thạnh) từ vài năm trước khi sinh ra thân
phụ của cụ.
Năm 1776 là năm Tây Sơn chiếm Đồng
Nai; dù sao, giặc Tây Sơn cũng không cản được bước tiến di dân của
người Annam về miền đất Miên này. Đức Cha d’Adran đă mở trường học
tại Cần Thơ vào thời này; vài năm sau, Nguyễn Ánh đă đến lánh nạn
tại đây.
Chính trong thời kỳ loạn lạc này, sớm hay trễ hơn một
chút (có thể khoảng cách không lớn lắm)
phải kể đến Ba người Công giáo đầu tiên đến đây lập
nghiệp. con cháu ba người này, ngày nay (từ 1905 trở đi) chiếm một
phần tư số người công giáo họ đạo Cái Bông. Đó là lối 1780, dưới
triều giám mục Pigneau de Béhaine, Giám mục d’Adran Giám mục Tông
Toà Cochinchina.
(*1). Nước Annam: tên
nước Việt Nam trước và trong thời Tây Sơn, ranh giới phía nam c̣n
quá mập mờ, có thể từ Đồng Nai trở ra, hoặc ít ra Miền Tây vẫn c̣n
thuộc về người Miên.
(*2). Xâm lăng hoà b́nh:
người Việt đến sống cạnh người Miên trong thôn sóc của họ; v́ người
Việt cần cù hơn nên họ có tiền hơn; từ từ học dùng tiền của mua lại
đất của người Miên, và cho chính người Miên mướn lại. Người Miên
thấy lần hồi không sánh bằng người Việt, tự ư ra đi sinh sống nơi
khác.
(*3). Tôi: Tư liệu này
không có tên tác giả, cũng không ghi năm tháng; ở số “5, các linh
mục cai quản họ Cái Bông” chỉ đi đến “ Cha Phêrô Khánh 1905, không
có ghi năm ngài rời bỏ Cái Bông; trên cơ cở đó, ta phỏng đoán “tôi”
chính là Ngài, là tác giả tập chuyên khảo này.
Như thế, đạo công giáo đă châm gốc rễ
tại Cái Bông nhờ những người Công giáo di dân từ xứ Annam, theo như
lời kể của con cháu họ, chắc chắn từ Miền Trung, v́ người di dân đă
đến đây qua rất nhiều giai đoạn.
***
II.
Những người Công giáo đầu tiên tại Cái Bông: Ông Vách Trưng – Ông Trương Chức –
ông Trương Thoại.
Những người Công giáo đầu tiên này,
xem ra không có họ hàng với nhau, “v́ họ” của họ khác nhau, như ông
Vơ Trưng và ông Trương Chức (*4).
Những người đạo ḍng của Cái Bông
hiện nay (lối 1905) là con cháu năm đời của Ba người Công giáo đầu
tiên này. Sau đây là một vài ví dụ:
Ông. Biện Việc Quờn, hiện nay 42 tuổi,
con cháu của Ông Vách Trưng bên ngoại, con của bà sáu Tâm (Bà Sáu
Tâm là con thứ ba của Bà Sương; Bà Sương con thứ ba của Bà Sư; Bà Sư
là con thứ tư của Ông Vách Trưng).
Ông Câu Học đứng đầu họ đạo hiện nay
là con cháu của Ông Trương Chức: con Ô. Trùm Hổ, cháu nội của Ô Trùm
Trị, cháu sơ của Ông Trùm Trương Chức.
Ô. Biện Trung, lối 40 tuổi, con cháu
của ông Trương Văn Hội. Bà Trung là con Ô Xoài, cháu nội Ô Lộc, cháu
cố Ô. Biện Điều, cháu sơ B.Sài; B.Sài là con Ô, Trương Thoại.
Trong Ba người Công giáo đầu tiện này,
chỉ có Ông Vách Trưng là có con cháu đông nhất. Người ta gọi Ông
Vách là “Ô. Vách”(*5), điều đó cho thấy Ô không sinh ra ở tại Cái
Bông, mà là ở Annam; nếu không phải thế, người ta đă không gọi Ô là
Ô Vách (đây có thể là một chức quan nhỏ, tại vùng Cochinchina)
Ô. Vách Trưng có bốn con – Ô Chức có
năm con – Ô Thoại có hai con.
Năm 1835, cuộc bách đạo bùng nổ; tại
Cái Bông đă có 46 gia đ́nh Công Giáo lập nghiệp tại đây, đó là
nguồn gốc họ đạo
Cái Bông, được sinh ra trong thời giặc Tây Sơn…
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, một nhà thờ
đă được dựng nên trong khu vực nhà thờ hiện nay. Khu vực đất nhà thờ
Cái Bông, là đất do Ô. Vị dâng; Ô. Này là rể của Ô. Vách Trưng và là
chồng của bà Sư, là ông nội của bà Nguyệt, bà này hiện c̣n sống 77
tuổi. Họ đạo đă có đất thánh (*6), nơi chôn cất hầu hết tổ tiên
người công giáo tại Cái Bông. Ông Vách Trưng được chôn cất trong đất
nhà thờ, phía sau trường học hiện nay. Ông Vị chôn cất trong phần
đất, sau này ông biện Quả sẽ dâng cho nhà thờ. Ông biện Quả là chồng
của bà Nguyệt, bà này là cháu nội của ông Vị. Ông Chức cũng được
chôn cất tại đất thánh của họ đạo.
Các Linh mục thừa sai cai quản họ đạo
Cái Bông trước chiến tranh (Tây Sơn-Nguyễn Ánh) là Á thánh Marchand
Du (cố Du), cha Gagelin (cố Kính). Đức Cha Cuénot Thể (cố Trí) đến
đây từ Tất Ba Hut, Đầu Nước (Cù lao Giêng). Sau này gần cuối cuộc
bách hại, Thánh Lựu và Thánh Minh (Cha Phan) đă đến thăm họ Cái Bông.
(*4) và (*5): Trong “Tông chi Ba vị
sáng lập họ Cái Bông”, Cha Bên. Trương Thành Thắng cháu nội Ô.câu
Học, có ghi: Ô. Vách Trưng họ Vơ: Vơ Vách Trưng. Theo lời kể của ông
câu Học kể cho con cháu nghe: Ô Vách Trưng là quan Một (Vách, Dách
đọc theo âm Tàu), của Nguyễn Ánh. Ô. Trương Chức và Trương Thoại là
lính dưới quyền Ô. Vách Trưng.
(*6). Đất thánh họ đạo Cái Bông, cách
nhà thờ 400m, về phía nam, cạnh Chùa Phật của Làng: c̣n vài đất
thánh phụ mới sau này, theo như ở đây nói, Đất thánh đầu tiên của họ
đạo trên đất nhà thờ sau Trựng học, trên phần đất của ông Năm Hưng
và Ông Mười Út, hiện nay đă lạng và mất dấu tích .
***
III.
Thời kỳ cấm cách:
Trong thời kỳ ly
loạn này, người ta biết rất ít về Cái Bông, nhà thờ đầu tiên đă biến
mất. Bấy giờ, người công giáo hội họp nhau trong nhà ông Đội Lư,
cháu nội Ô. Vách Trưng.
Ô. Đội Lư là người cương quyết. Sau này ông bị bắt v́
đạo ở Chà Và hay Rạch Rập (Lọp) và chết rủ tù tại Vĩnh Long. Được
táng tại Mặc Bắc
(Theo đặc San của Họ đạo Mặc
Bắc ghi: Ông Đội Lư bị bắt tại nhà riêng của Ông ở tại Mặc Bắc, do
hai tên bếp Nhẫn và xă Hiệp tố cáo). Nhà Ông Đội Lư ở Cái Bông rất
gần nhà thờ. hiện nay, Ô,Biện Giáo đang ở phần đất đó. Trong thời kỳ
khó khăn này, các Thừa Sai, linh mục ngoại quốc rất ít ghé thăm Cái
Bông. Người có đạo muốn lănh Bí tích phải đi đến Cái Nhum, Cái Mơn,
Chà Và. Nhiều người đă không trở về nữa; họ định cư luôn tại đó.
Trong thời gian này Cái Bông không làm được ǵ khá hơn là lo âu sợ
hăi. Như trên đă nói, Ô. Đội Lư đă bị bắt v́ đạo, một người Công
giáo khác cũng đă bị bắt trong khi đi đến Chà Và; đó là
Ô Trương Văn Trị,
cháu nội ông Trương Chức, cháu nội ông Trị là ông Câu Học đă kể cho
nghe rằng: Ông nội của ông đă bị bắt v́ đạo, v́ quá sợ khổ h́nh nên
ông đă “phạm ảnh”,
đó cũng là tự nhiện thôi, nhưng không phải là tinh thần công giáo.
Tuy nhiên về sau này, ông là
Trùm họ đạo Cái Bông.
***
IV.
Người Công Giáo.
Như trên tôi đă nói vào 1835,
khởi đầu cuộc cấm cách, Cái Bông chỉ có lối 45 gia đ́nh; năm 1856,
có 72 người Công Giáo theo báo cáo của Cha Phêrô Lựu (nay là Thánh
Phêrô Lựu, Linh mục); năm 1864 cha Gornot ghi nhận nơi này chỉ có
105 giáo dân, và 1865 có 160 người. Cái Bông đă không phát triển
nhiều về sỉ số, nhiều người là con cháu của Ba vị sáng lập họ Cái
Bông, đă đi định cư nơi khác. Một số đă trở về vào dịp tốt; hầu hết
th́ không. Như vậy ở cù Lao Giêng có con cháu ông Chức; ở Băi Xan,
Mặc Bắc có nhiều con cháu Ô. Thoại; con cháu Ô Vách Trưng, mỗi nơi
một ít khắp trong các vùng: Giồng Miễu, Chà Và, Láng Sắc, Gồng Rùm,
Cái Mơn, Mặc Bắc, Sóc Trăng, Cái Nhum, Bến Tre, B́nh Đại, Bông Bót,
Rạch Lọp, Băi Xan.
***
V. Các
Linh Mục Cai Quản Họ Đạo:
Cha Gernot
(1864-ầy7) ngài thấy Cái Bông có 105 giáo dân. Trong bản báo cáo của
ngài có ghi; những người công giáo này đă được Đấng Chân Phứơc
Marchand Du rửa tội. Vào năm 1865, cha c̣n ghi 160 người. Năm 1866
cha Colombert rửa tội tại Cái Bông 36 tân ṭng. Năm 1867, Cái Bông
có 193 người công giáo.
Cha Phaolô Tuyết
(1867-1875) vào thời này, cha Gernot ở quá xa, hoặc quá bận rộn,
không thể tự ḿnh lo cho Cái Bông được nữa, ngài đă giao cho cha
Phaolô Tuyết tiếp tục. Trước khi Cha Phaolô Tuyết đến đă có thầy
Phêrô Dư (sau này là Cha P.Dư) và thầy Phaolô Dưỡng (sau này là Cha
P.Dưỡng) đă ở đây phụ giúp giáo lư. Hai thầy đă lo dạy giáo lư cho 6
dự ṭng, được rửa tội năm 1866 do cha Phaolô Colombert. Cha Phêrô
Tuyết đă dựng lại nhà thờ trên nển cũ, tại họ đạo theo kiểu họ lớn,
thành lập chức sở mục vụ, trong đó có hai ông trùm và các biện bỏ:
đó là những thầy giảng trong thời đó:
Ông Trùm Gọ,
cha bà Nguyệt và là chồng của Bà Sương, bà này là cháu của Ô Vách
Trưng.
Ông Trùm
Trí, con Ô Cả Dương (Cả Dưởng?) và là cháu ngoại của Ô Vách Trưng.
Ô Câu Kỳ (Tổng
việt Kỳ) và ông câu Quyển là em của trùm Tứ, con ông Cả Dương.
Hiện nay không c̣n sổ sách ghi
lại công việc của cha P.Tuyết. Cha Tôma Sâm c̣n nhớ lại một số việc:
ngài quả quyết trong ṿng 7 hay 8 năm, cha P.Tuyết đă rửa tội được
1500 người thoạt nghe qua, con số này nghe hơi lớn nhưng xét cho kỷ,
người ta biết rằng cha P. Tuyết đă rửa tội cho tân ṭng ở An Thuỷ,
họ đạo cạnh biển biển, phía Đông Ba Tri; nơi khác nữa như Giồng Bà
Trung, Ba Tri, B́nh Thành, Cái Sơn, Châu Thới, không kể đến việc rửa
tội ở Cái Bông và Giồng Giá; con số kể trên xem ra qua đúng.
Đó là thời kỳ trở lại quá đông,
một viên chức đứng đầu vùng này, người Đại diện cho nhà nước, như
người ta thường gọi, để trong coi hàng Tổng tại đây, nơi con cháu
của cụ Phan Thanh Giảng dựng cờ khởi nghĩa, hai sau này là trận
chiến cực đoan, đó là Ô Tổng Việt (tục danh là Kỳ). Ông Tổng Việt là
con Ô Cả Dưỡng (trong tông chi…sđđ: Cả Dương), cháu ngoại Ô Vách
Trưng, và là em ruột Ô Trùm Tứ. Chức vị này (Thị sự cai Tổng) được
dành cho một người Công giáo (Ô . Tổng Việt), v́ đó mà có nhiều
người muốn theo đạo. Theo họ nghĩ, làm thế để được ông lớn và cả
nước Pháp bảo vệ… Tiếc thay, cha P. Tuyết đă không sẵn sàng chuẩn bị
cho con số đông người nhập đạo như thế. Chỉ có ông biện giúp cha
trong việc dạy giáo lư, và họ cũng không được học hỏi cho đầy đủ,
sau đó số người theo đạo mới này đă sớm nhận ra rằng nước Pháp ít
quan tâm, hay chẳng hề quan tâm về việc xin giữ đạo của họ. Đối với
nước Pháp, ngoại giáo cũng ngang hàng với Kitô Giáo thôi. Điều này
hẳn đă biết từ lâu rồi. V́ nhiều hoạt động bị thất bại, ông Tổng bị
cách chức. Giận dữ, ông và cả gia đ́nh đă bỏ đạo. Dù vậy vài giờ
trước khi chết, ông cũng đă cho gọi cha sở đến; nhưng ngài đi vắng
và lâu sau mới trở về. Những người hiện diện cho biết Ô. Tổng đă tỏ
ra dấu bề ngoài ăn năn thống hối trước khi chết. Ông cũng được an
táng trong đất thánh của họ đạo. Một số con cháu ngày nay vẫn c̣n sống
bên lương.
Như thế, phong trào xin giữ
đạo không phải là điều đáng mơ ước. ở An Thuỷ cũng thế, B́nh Thành,
Châu Thới cũng vậy. Hiển nhiên, không phải chắc chắn rằng những
người tân ṭng này điều bỏ đạo hết, một số vẫn giữ, định cư và h́nh
thành những họ đạo lớn nơi khác; không nên nghĩ rằng các họ đạo đó
gồm những người thuần tuư sinh sống tại chỗ.
Tôi đă gặp ở Bến Tre một gia
đ́nh xưa ở An Thuỷ. Gia đ́nh thầy Sơn khi xưa ở Châu Thới, đă sang
lập nghiệp ở Chà Và. Những người công giáo đầu tiên đă được Cha P.
Tuyết rửa tội, họ vẫn bám trụ tại Cái Sơn. Cha P.Tuyết rời Cái Bông
1875 và Cha Fougerouse đến thay thế.
Cha Fougerouse:
(1875-1879) Vừa đến Cái Bông, cha đă nghĩ ngay đến việc xây lại nhà
thờ bằng gạch. Đây là công tŕnh to lớn, v́ khi đó họ đạo không có
nguồn thu nhập nào. Người có đạo ở đây cũng rất nghèo, v́ đất đai
không đem lại lợi tức bao nhiêu. Cha Fougerouse đă đóng góp nhiều,
nên công việc xây dựng nhà thờ mới được khởi sự. Tường vách đă được
xong, tạm thời mái đựơc lợp lá, v́ cha sở đă cạn kiệt tiền bạc. Sau
đó, ngài không đủ thời gian để hoàn thành ngôi nhà thờ. Cha phó Cái
Bông là Cha Auguste Abonnel, chỉ ở Cái Bông độ vài tháng; ngài
thường ở Giồng Giá và Cái Sơn nhiều hơn. Tại Cái Sơn, cha rửa tội
cho 13 người và ngày 15-06-1789, cha Bonnel đă dâng 100$ (piastres)
giúp vào việc xây dựng nhà thờ Cái Bông.
Cha Fougerouse đă mở một
Trường học ở Cái Bông và giao phó việc trong coi cho các D́ Mến
Thánh Giá Cái Mơn. Từ lúc đó trở đi, trường học vẫn luôn hoạt động,
cha đă rửa tội cho 100 người và chứng hôn cho 21 đôi. Cha Fougerouse
và cha Abonnel rời Cái Bông một lượt vào năm 1879. Sau đó, cha
Sidot đến thay thế cũng trong năm này.
Cha sidot:
(1879-1889) vào thời cha Sidot, việc xây dựng nhà thờ đă hoàn thành
gần như nhà thờ hiện nay (ND: trong năm 1905-1922). Chính quyền đă
cho phép đào một con kinh nhỏ sau nhà thờ, giúp cho việc cấy cày
những thửa ruộng nhà chung.Nhà thờ sắm được một cái chuông nặng
200kg;
Phân nữa tiền do ông Chánh Nguyễn Văn
Hương dâng, phân nữa là của họ đạo. Trong thời cha Sidot, có một vụ
kiện thưa ra chính quuyền đ̣i đất, số đất dâng cho nhà chung thời
Cha P.Tuyết và Cha Fougerouse. Toà án Sài G̣n đă định đoạt quyền
trên phần đất này là của nhà thờ Cái Bông.
Các chức sở thời này có các
ông: Trùm Trị (cháu nội Ô Chức). Câu Dương, câu Hổ, câu Tấn. Cha
Sidot có cha phó ngụ tại Giồng Giá là cha Tôma Sâm. Cha Sidot rửa
tội tại Cái Bông được 210 người.
Cha Tôma Sâm:
(1889-1898) từ địa vị cha phó của cha Sidot, ngụ tại Giồng Giá, cha
Tôma Sâm trở thành người kế vị cha Sidot ở Cái Bông, dưới sự giám
sát của cha Frison (Hoàng), đang ở tại Cái Mơn. Năm 1894, mặt tiền
nhà thờ có nguy cơ sụp đổ, đă đươc cha Tôma Sâm thay thế bằng một
tháp chuông. Năm 1895; xây lại trường học như hiện nay, cha Tôma Sâm
cũng như cha Sidot ở trong “nhà vuôn” rất nhỏ ở phía sau nhà thờ.
Cha Tôma Sâm rửa tội tại Cái Bông là 232 người.
Cha P. Tŕnh:(1898-1901)
từ vài năm nay, Ô Biện Quả chồng bà Nguyệt đă bán nửa giá, mảnh đất
sát cạnh nhà thờ. Chính trên đất này, người ta xây nhà xứ. Lúc này
mái nhà thờ cũng được sửa lại, cung thánh cũng được nới rộng ra. Cha
sở tuyên chiến với người rối, trễ năi, cờ bạc. Việc này không phải
là không có kết quả.
Cha Gioan Việc:
(1901-1905) trận băo năm Th́n (1904) đă không làm thiệt hại cơ sở
vật chất. Thiệt hại quan trọng là lúa cất trong kho.
Cha Phêrô Nguyễn Phước
Khánh: (1905- ) (*7) là cha sở Cái Bông (từ năm
1905-1922). Ngài hiện c̣n đang coi sóc họ đạo này. Năm 1910, Cái
Bông đếm được 655 người công giáo.
***
VI. Họ
Cái Bông Ngày Hôm Nay:
1/ Người Công giáo Cái
Bông sống bằng nghề làm ruộng, đại đa số nông dân đă bắt
đầu nghề này c̣n rất trẻ, v́ thế, việc học hỏi giáo lư rất chậm và
văn hoá cũng kém phát triển. Họ là những người nông dân mộc mạc. Về
mặt đạo, đa số họ giữ hết mọi luật lệ nhưng những việc tôn kính do
ḷng đạo đức th́ họ rất chậm phát triển. Như giữ thứ sáu đầu tháng
hiện nay chỉ mới khởi sự thôi. Tôi hy vọng tương lai sẽ khá hơn. Sắc
lệnh mới của Giáo Hoàng Piô X cho phép các trẻ em được rước lễ
thường xuyên, tôi nghĩ giáo dân sẽ quen dần và thực hiện đều đặn hơn.
Cho đến hôm nay, tại Cái Bông, nhiều trẻ em đă lớn tuổi rồi mà cha
mẹ vẫn không cho đến trường, buộc ḷng phải để chúng nó lănh nhận Bí
Tích Thánh Thể trễ hơn. Thánh lễ hằng ngày chỉ có ít người lớn và
một số học sinh.
2/ Trường Học:
(8) Tại Cái Bông, có hai trường học: một dành cho nam, một dành cho
nữ, cả hai trường điều do các D́ Mến Thánh Giá Cái Mơn điều khiển.
Số học sinh năm nay là 75. Không ít trẻ em , vài ba tháng trong năm
phải đi giữ trâu. Trong ṿng hai, ba năm, giáo dân buộc phải cùng
nhau góp lại một số vốn, để lấy lăi làm chi phí hằng năm cho hai
trường học nói trên. Công việc có kết quả. vốn đă có và được gởi nơi
chắc chắn. số lăi vừa đủ để cho các D́ mua cặp, sách vỡ và mọi chi
phí linh tinh. Đây là việc tốt, và phụ huynh học sinh không mấy bận
quan tâm cho tương lai con em ḿnh nữa.
3/ Hội Hài Đồng:
Trong vùng này, dân cư rất đông. Ư thức vệ sinh sức khoẻ c̣n sơ
đẳng; nguồn nước khan hiếm trong mùa khô, tỉ lệ tử vong nơi trẻ em
rất lớn. Hằng năm hai D́ Mến Thánh Giá ở Cái Bông đă điều trị cho
khoảng 40 em.
4/ Tài Sản Của họ Đạo:
Họ Đạo Cái Bông có nhiều nguồn lợi kinh tế, thu nhập từ ruộng đất.
số đất này là đất bỏ hoang. Các điền chủ đă dâng lại cho nhà thờ v́
không thu hoa lợi để có tiền nộp thuế. Sau đó, số đất này lần hồi
được canh tác và trở thành đất tốt.
5/ Hy Vọng Cho Tương Lai:
Vài năm gần đây người công giáo tăng dần tuy không nhiều. một số
giáo dân lâu nay đă bỏ Cái Bông để đi làm ăn nơi khác, mà không gặp
may, họ đành trở về Cái Bông, công việc đồng án tuy cực nhọc, nhưng
có lợi. Rủi thay, người bản xứ th́ vô tư và lo ăn chơi. việc tăng số
dân vẫn tiếp tục. V́ ruộng cho người lương thuê c̣n nhiều. và lại
dần dà người mướn đến cảnh nghèo khổ, và đă khởi sự bằng nghề nông
hiển nhiên thường bị thất bại.
(7) Tư liệu này có thể được
xem là chính Cha Phêrô Nguyễn Phước Khánh viết đang khi ngài đang là
cha sở Cái Bông, và khi ghi đến thời gian của ngài, không thấy ghi
năm ngài rời khỏi Cái Bông.
(8) Trường học này đă được
Cha Luca Nguyễn Văn Sách xây lại vào năm 1932. Năm 1972, cha Gioan
kim Nguyễn Văn Quang xây lại lần nữa và tồn tại đến hôm nay (2000)
chỉ có ngôi nhà D́ nằm chính giữa là c̣n nguyên trạng công tŕnh Cha
Luca Sách để lại mà thôi.
II.VÀI
NÉT VỀ HỌ ĐẠO CÁI BÔNG
1.
Nguồn gốc:
Họ đạo Cái Bông
ở về hướng Tây bắc thị trấn Ba Tri, cách thị trấn trên 7 km. Đây là
họ đạo khá lâu đời, trên 200 năm lịch sử; một trong bốn họ đạo đông
người công giáo nhất của tỉnh:
Cái Mơn – Cái Nhum – Bến Tre và Cái Bông.
Hiện nay Cái Bông có tới hơn 4000 giáo dân.
Những người công giáo đầu tiên của Cái Bông.
A.
Về truyền khẩu:
Chúng tôi được theo ông cả Học, (ông
nội của cha Bênêđitô Trương Thành Thắng) và cả Cha Bên. Thắng và một
số ông bà lớn tuổi kể lại: “Ba người công giáo đầu tiên có công sáng
lập họ đạo công giáo Cái Bông là các Ô. Vơ Vách Trưng – Ô.
Trương Chức và ông Trương Thoại. Họ từ miền Trung (nước
Annam) vào đây, là lính của Nguyễn Ánh, đă từng vào sinh ra tử với
ông. Dù vậy, ba ông này và ít tùy tùng đă bỏ trốn không theo Nguyễn
Ánh nữa; lư do, họ sợ sau này khi lên ngôi, ông cũng tiêu diệt người
công giáo; thực tâm, Nguyễn Ánh không mấy thiện cảm với đạo Tây này,
dù ông rất biết ơn sự giúp đỡ của ĐGM. Bá lộc…” (GH công giáo ở
VN của Lm BĐS)
Truyền khẩu kể rằng:
“Trong một lần Nguyễn Ánh bị đánh bại, chạy trốn và ít tùy tùng t́m
đường ra biển, đang trên vùng đất Bến Tre ngày nay; v́ bị đuổi nà
quá, họ phải chạy vào rạch Sơn Đốc. Cùng đường, họ phải chạy ra biển.
Trên đoạn đường này, Ba vị đă bỏ trốn, lên đất liền lập nghiệp…”
Cũng được kể rằng: “Sau lần này, Nguyễn Vương (Nguyễn Ánh) chạy sang
Xiêm xin cầu viện. Đó là truyền khẩu…
B.
Về tư liệu lịch sử:
Ta có 3 lần Nguyễn Vương trực chiến với Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Lần đầu:
Tháng 4/1782: Nguyễn Huệ đem quân vào đánh Gia Định lần
thứ 3, đang ở trong tay Nguyễn Vương (Nguyễn Ánh). Tuy nhiên đây
là lần thứ 1, Nguyễn Vương trực chiến với Tây Sơn; Ông bị thua, phải
chạy ra Phú Quốc.
Lần thứ 2:
Tháng 3/1783, Tây Sơn lại kéo quân vào Gia Định lần thứ 4,
quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Vương cho bằng được. Nguyễn Vương chống
không nổi ở cửa biển Cần Giờ, đă tháo chạy về Ba Giồng cùng 5, 6 tùy
tùng và 100 lính. Sau đó, bị đuổi nà quá, phải chạy ra Phú Quốc, rồi
chạy ra Côn Đảo, bị bao vây tại đây, may nhờ một trận bảo mà thoát
hiểm. Sau đó, Nguyễn Ánh chạy qua Xiêm cầu cứu…
Lần thứ 3:
Đầu năm 1785, Tây Sơn lại kéo quân vào lần thứ 5, v́ nghe có
viện binh Xiêm giúp Nguyễn Vương. Nguyễn Huệ đă đánh bại Nguyễn
Vương tại Rạch Rầm, Xoài Mút. (Trận này, Xiêm lại viện cho Nguyễn
Vương 20.000 quân, 500 chiếc chiếc thuyền, và hai vị tướng là Chiêu
Tăng và Chiêu Sương). Bị đại bại, chỉ c̣n lại vài ngàn quân, Nguyễn
Vương và họ chạy theo đường bộ mà về Xiêm.
Như vậy, ba vị sáng lập họ Cái
Bông, chỉ có thể đặt chân lên đất này vào năm 1783; v́ có thể
giữa năm đó, họ bỏ Nguyễn Vương mà chạy trốn, và cũng giữa năm năm
này, Nguyễn Vương lang thang các đảo Phú Quốc, Côn Đảo, rồi chạy qua
Xiêm cầu viện.
Giả thiết này khả dĩ hợp lư hơn cả; v́ ngoài tư liệu
lịch sử ra, chúng tôi c̣n ba tư liệu khác khá vững chắc, đó là:
Monographie de Cái Bông, có thể do Lm Phêrô Nguyễn Phước Khánh
(?) ghi lại, hiện lưu trữ lại ṭa TGM Sài G̣n – Tông chi ba vị
sáng lập họ đạo Cái Bông, của Lm Bênêđitô Trương Thành Thắng –
lịch sử GHCG tại VN, của Lm Bùi Đức Sinh. Trong Monographie
de Cái Bông có ghi: “…có thể vào năm 1780,
sớm hay trễ hơn một chút, những người công giáo đầu tiên đă đặt chân
lên Cái Bông…”
2. Các ngôi nhà thờ:
Nhà thờ đầu tiên:
(1802-1833) được xây dựng sau khi Gia Long lên ngôi (1802). Nhà thờ
bằng ǵ? Chúng tôi không được rơ. Trước đó có nhà nguyện chưa, cũng
không rơ nốt. Theo Monographie de Cái Bông, trong thời gian đó: “…một
nhà thờ đă được dựng lên”. Sau đó, trong khoảng 1833-1863: đó là
thời cấm cách; nhà thờ b́nh địa. Giáo dân tụ họp âm thầm tại nhà Ô.
Đội Lư, để đọc kinh hoặc lănh các Bí Tích; nền nhà Ô. Đội Lư, hiện
nay con cháu Ô. Biện Giáo đang ở.
Nhà thờ thứ 2:
được cha Phaolô Tuyết (1867-1875), là cha phó của cha Gernot, cha sở
Cái Mơn, dựng lại sau thời cấm cách (sau 1863); bằng vật liệu ǵ,
cũng không rơ; có thể chỉ là nhà thờ tạm, nhỏ thôi.
Nhà thờ thứ 3:
được cha Fougerouse (1875-1879) cho dựng lên. Công tŕnh to lớn, v́
cha bỏ công bỏ của vào đây khá nhiều. Tường vách đă xây xong, nhưng
mái lộp lá, v́ đă cạn tiền bạc. Cha phó, A. Abonnel dâng cho việc
xây dựng nhà thờ 100$. Cha sở và cha phó ra đi năm 1879, nhà thờ vẫn
chưa hoàn thành. Cha Sidot đến kết thúc việc xây dựng. Ô. Chánh
Nguyễn Văn Hương dâng ½ số tiền để mua quả chuông nặng gần 200 kg.
Số c̣n lại là họ đạo. Chuông này vẫn c̣n đang sử dụng.
Nhà thờ thứ 4:
do cha Luca guyễn Văn Sách xây dựng năm (1930-1932). Công tŕnh này
lớn hơn nhiều so với nhà thờ củ. Kinh phí là 45$. Tháp chuông chỉ
cao 32m; v́ đă cắt bớt 4m v́ thiếu tiền.
Năm 1996, cha Gioakim Quang đă cho
sơn phết lại trong ngoài nhà thờ trừ tháp chuông. Năm 1998, tô sửa,
gia cố quét vôi lại toàn bộ tháp chuông; kinh phí do ṭa Giáo Mục
tài trợ và của một số ân nhân. Năm 2001, có sửa lại phần cung thánh
với nền mới và bàn thờ cẩm thạch trắng.
Từ sau thời cha Luca Sách trở đi cho
đến hôm nay, cung thánh đă nhiều lần đă được sữa đổi cho phù hợp với
lễ nghi phụng vụ mới, nhà là sau CĐ Vatican II.
3. Truy
nguyên địa danh “Cái Bông”:
Thực ra, ta không biết đích xác xuất
xứ Địa danh Cái Bông. Theo lời cha Bên. Thắng, chữ “Cái Bông”
là từ đọc trại từ tiếng Miên, v́ thực ra từ “Cái Bông”,
chỉ c̣n sử dụng tại ba điểm: nhà thờ Cái Bông – chợ Cái Bông (ngả tư
trước kia vào nhà thờ Cái Bông) – và Vàm Cái Bông, trên sông Hàm
Luông, nguồn nước đổ vào con rạch Giồng Quéo, chảy vào tận chợ Cái
Bông. Một lẻ khác, Miền Tây Nam Bộ trước 1700, c̣n thuộc chủ quyền
người Miên, nên địa danh xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer, điều này
không phải là sai. Chính sử VN xác định cho ta rơ điều đó; hơn nữa
trước 1700, dấu chân người VN hầu như chưa có, nhất là vùng sâu,
nông thôn…
Theo Lm Bên. Trương thành Thắng,
chữ “ Cái Bông” phát xuất từ tiếng được phát âm trại ra từ
ngôn ngữ Môn-Khmer. “CÁI” đọc từ âm “KH” đọc từ “BÂN”.
KH-BÂN = CÁI BÔNG = Có nghĩa Cái Bến. Như
Cái Mơn, đọc từ: KH-MÂN= CÁI MƠN= có nghĩa là
Con Ong. Âm “KH”: đọc nhẹ và hơi lẹ. Nhưng địa danh có
chữ “CÁI” đứng đầu, rất có thể nguyên gốc phát từ âm “KH”
trong ngôn ngữ MÔN-KHMER.
Như sau, KH-BÂN= CÁI BẾN=
đọc trại dần CẢ BÂN= CẢ BÔNG= CÁI BÔNG.
Ngoài ra c̣n một số địa danh khác
phát xuất từ tiếng Miên nữa; đó là TRÀ VINH – TRÀ CÚ – TRÀ KHA –
TRÀ LồNG. ÂM “TRÀ”, có thể từ âm “TA” trong Môn-Khmer.
Như vậy, phải đọc: TA VINH – TA CÚ – TA KHA – TA LỒNG, có
nghĩa: ÔNG VINH – ÔNG CÚ – ÔNG KHA – ÔNG LỒNG. Âm “TA”:
đọc nhẹ và hơi lẹ. Địa danh có âm Trà và Cái, cũng như GIỒNG,
dứng đầu, có rất nhiều trong số địa danh ở Miền Tây Nam Bộ.
Có người cho rằng địa danh Cái Bông,
phát xuất từ tên một ông Hương Cả trong làng có tên “CẢ BỔN”
xa xưa, dược kính trọng và với thời gian, người ta đă đọc trại ra
thành “CẢ BÔNG, CÁI BÔNG…”Điều này nghe cũng hợp lư, nhưng
thực ra chúng không t́m thấy cơ sở nào đáng thuyết phục cả.
4.
Đất rộng nhà
chung, trường học, đất thánh.
Họ Cái Bông hiện nay nằm trên địa bàn
hai xă: An Phú Trung và An Ngăi Trung. Đây là vùng ruộng lúa trù phú,
93% là nông dân lam lủ. Trước 1975, nhà chung có 42 mẫu đất rọc (giồng
cát), 120 mẫu ruộng sân cát, ngă tư, ḍng MTG Chợ Quán có một số đất
ruộng gọi là “Pilet”, do ông Tây Pilet khi về Tây, đă nhượng lại cho
hội Thừa Sai Ba Lê; sau thuộc quyền ḍng MTG Chợ Quán. Số đất này,
nhà thờ Bến Tre thu tô giùm. Nguồn gốc đất này, do ông Tổng Việt (biệt
danh là Kỳ),đă dâng cho quan đầu tỉnh có tên là Pilet, nhờ đó ông
được nhận là con nuôi, và được chức Thị sự Cai Tổng.
Đất ruộng nhà chung ở đây có nhiều,
v́ lúc đầu thời cha Sidot, đó là những mảnh đất hoang hóa, không
canh tác được, lại phải đóng thuế không kham, nên địa chủ dâng hoặc
bán rẻ lại cho nhà chung. Lâu dần sau này, chúng mới trở thành đất
thuộc.
Từ trước những năm 1905, Cái Bông đă
có trường tư thục công giáo: một dành cho nam, một dành cho nữ. Công
việc này được giao cho các d́ MTG Cái Mơn. Đến thời cha Luca Sách,
trường này được xây lại kiên cố năm 1932, trong khu vực riêng bên
kia lộ trước nhà thờ…Trường này năm 1973, đă được cha Gioakim Quang
xây lại. Chỉ có nhà d́ là c̣n giữ nguyên trạng. Vào thời cha Phêrô
Khánh, đă có nhà mô côi tại đây, cũng do các D́ Cái Mơn đảm trách.
Họ đạo có một khoảng đất thánh nhỏ, đầu tiên, trên
đất nhà thờ; nằm phía sau trường học của họ đạo. Tại đây, an táng
các ông tổ của họ đạo như Ô. Vơ Vách Trưng và ông Trương Thoại. C̣n
ông Trương Chức th́ được an táng ở cù Lao Giêng.
Đó là căn
cứ vào Monogrphie de Cái Bông kể lại. Đất thánh thứ hai, như ta thấy
hiện nay, tọa lạc giáp ranh với Chùa Phật ấp 3, về mạn Tây Nam của
nhà thờ Cái Bông. Nơi đây hôm nay, đă chôn chật nít rồi…C̣n vài đất
thánh nho nhỏ nữa…
5. Các linh mục cai quản họ
Cái Bông.
Thánh Marchand (Du), thánh Phêrô Lựu,
Cha Gagelin, Đức cha Cuénot Thể và Thánh Philipphê Minh có đến Cái
Bông để ban Bí Tích. Đây là một họ lẻ của Cái Mơn, v́ vào năm 1864,
Cái Bông chỉ có 105 giáo dân mà thôi theo báo cáo cùa cha Gernot.
i. Cha
Gernot (1864 – 1867), cha sở Cái Mơn kiêm Cái Bông.
Cha Phaolô Tuyết (1867 – 1875), cha
phó của cha Gernot ở tại Cái Bông.
ii.
Cha
Fougerouse (1875 – 1879), cha phó là cha Auguste Abonnel thường ở
Giồng Giá – Cái Sơn.
iii.
Cha Sidot (1879 – 1889) cha phó là cha Tôma Sâm ở
Giồng Giá – Cái Sơn.
iv. Cha
Tôma Sâm (1889 – 1898) cha sở.
v. Cha
P. Tŕnh (1898 – 1901) cha sở.
vi.
Cha Gioan Việc (1901 – 1905) cha sở.
vii. Cha
Phêrô Nguyễn Phước Khánh (1905 – 1922)
viii. Cha
Phêrô Nguyễn Linh Nhạn (1922 – 1930)
ix.
Cha Luca Nguyễn Văn Sách (1930 – 1956) có nhiều cha
phó.
x. Cha
Felix Lê Văn Tŕnh (1956 – 1961)
xi. Cha
Antôn Bùi Thanh Long (1961 – 1963)
xii. Cha
Gioakim Nguyễn Văn Quang (1964 - ) các cha phó:
Cha Matthêu Huỳnh Huân Nhi
Cha Giacôbê Nguyễn Công Lành
Cha Gioakim Dương Văn Ngoan
Cha Phaolô Trương Tấn Lực (1989 –
2002)
Cha Phaolô Lê Thanh Dũng (2002
- )
Giacôbê Nguyễn Huỳnh Tươi
(2006…)
6.
Các linh mục sinh quán tại Cái Bông.
Cha Gioan Mta Hưởng (1899 – 1960)
Cha Gbta Lê Văn Gấm (1911 – 1946)
Cha Bên. Trương Th. Thắng (1912 –
1987)
Cha Đôm. Lê Minh Tỏ (1916 – 1985)
Hiện c̣n sống:
Cha Gbta Huỳnh Cao Thượng – sinh
(1942, Lm 1970)
Cha Phaolô Trương Tấn Lực – sinh
(1947, Lm 1989)
Cha Đaminh Bùi Văn Đằng – sinh (1948,
Lm 1989)
Cha Albertô Trần Văn Sang – sinh
(1958, Lm 1992)
Cha Phêrô Nguyễn Thanh Liêm – sinh
(1948, Lm 1993)
Viết đôi ḍng này, chúng tôi rất mong
mỏi nhận được sự góp ư sáng suốt của những bậc cao kiến, chân thành
cám ơn trước.
Tài liệu tham khảo:
Tông chi ba vị sáng lập họ đạo Cái Bông,
của Lm Trương Thành Thắng in ronéo.
Monographie de Cái Bông, district de Bến Tre,
bản dịch năm 2000.
Giáo hội
công giáo Việt Nam,
của LmBùi Đức Sinh, quyển I và II, năm 1998.
Việt Nam
sử lược,
của Trần Trọng Kim…
Nam Bộ xưa
và nay,
bài của Nguyễn Đ́nh Đầu trang 187, NXB TPHCM, năm 1998.
Các triều
đại Việt Nam,
của Huỳnh Dư và Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh Niên năm 1995.
Lịch sử
Việt Nam
của Tôn nữ Quỳnh Trân, NXB trẻ, năm 1998.
Công giáo
Đành trong thời ĐGM Pigneau,
lm Trương bá Cần, TS Đại Kết 1992.
Lm. Phaolô Trương Tấn Lực
|